23/11/2024

WGPQN (4.8.2020) – Internet cho phép chúng ta tiếp cận kho báu thông tin mà cách đây vài thập niên ta không hề hình dung ra được. Trên mạng lưới toàn cầu và mạng xã hội, thông tin này được sáng tạo và trao đổi ở thời gian thực. Người dùng có thể bị lạc hướng trước khối lượng lớn thông tin và dữ liệu theo nhiều quan điểm khác nhau mà mỗi quan điểm đều nỗ lực khẳng định mình là sự thật. Trong mớ hỗn độn này, tin tức gây ồn ào và có nhiều bình luận nhất sẽ nhận được sự đồng thuận và thông tin nào nhiều “like” nhất sẽ là tin đúng. Trong một vũng lầy rất khó để mà thoát ra khỏi nó thì làm thế nào phân biệt được sự thật và điều dối trá? Không quá cường điệu khi nói rằng đang ẩn nấp trên internet là những thông tin rối bời, giả tạo và lệch lạc thường thao túng nhận thức của công chúng.[1]

 

Đức thánh cha đã dành riêng sứ điệp của ngài cho hiện tượng “tin giả” (fake news) nhân Ngày Thế Giới Truyền Thông lần thứ 52. Theo Đức Phanxicô, “Hiệu quả của tin giả phụ thuộc trước hết là vào khả năng bắt chước các tin tức thực sự, đến mức xem ra có vẻ hợp lý. Thứ nữa, cái thông tin này tuy giả nhưng trở nên đáng tin nếu nó “nắm bắt” được sự chú ý của người dân bằng cách đánh trúng các thành kiến và những định kiến xã hội, và khai thác được những cảm xúc bộc phát như lo lắng, căm hờn, tức giận và thất vọng”.[2]

Bản tính độc hại và lây lan của tin giả hay tin với ý thao túng đang lan truyền trên mạng toàn cầu và mạng xã hội từ đầu này đến đầu kia của thế giới khiến cho việc phân định và nhận thức sự thật càng khó khăn hơn. Tuy nhiên, tin giả hay fake news không phải là hiện tượng mới đây.

Mẫu trình thuật trong Kinh Thánh

Từ nguyên thủy, đã có những câu chuyện trong Kinh Thánh cảnh báo người đọc về mối nguy của sự thật bị uốn nắn và thông tin giả tạo. Cái kết thật bi thảm cho những ai dựa vào tin giả rồi lo lắng và sợ hãi mà không đặt niềm tin vào Lời Chúa là lời chân thật. Đối với độc giả, trình thuật trong Kinh Thánh có thể là bài tập phân định thật sự để biết phân biệt điều cao quý trong điều hèn hạ (cf. Gr 15,19). Khi đọc, chúng ta được mời gọi phân định nguồn thông tin, điều gì đáng tin và không đáng tin để đừng bị lừa phỉnh.

Bên trong thế giới kể chuyện, người kể có nhiệm vụ trình bày câu chuyện.[3] Có thể nói đây là đặc quyền của người kể. Người kể phải được xem như có hiện diện cách văn chương trong bản văn, không được nhầm lẫn với tác giả thật. Chẳng hạn, sách Xuất Hành bắt đầu như thế này: “Sau đây là tên những con cái Israel đã đến Ai Cập với ông Giacóp, mỗi người đem theo gia đình mình” (Xh 1,1). Đây là tiếng nói của người kể.

Trước hết, trong Kinh Thánh, người kể chuyện là toàn tri, biết hết mọi sự trong câu chuyện được kể cũng như có thể tiếp cận được cảm nghĩ và tư tưởng của nhân vật, kể cả đời sống nội tại của Thiên Chúa. Một đặc tính khác của người kể là tính đáng tin cậy, kể cho độc giả một phiên bản lịch sử xác thực và đáng tin. Người kể chuyện trong Kinh Thánh cũng vô danh, đứng đàng sau bản văn và không xuất hiện nổi bật. Hiếm khi người kể xét đoán hay đánh giá về nhân vật hay một hoàn cảnh.

Vì thế, trong Kinh Thánh, câu chuyện được kể do một người kể chuyện đáng tin và biết hết mọi sự. Quan điểm của Thiên Chúa thì đáng tin cậy trong khi cái nhìn của những nhân vật khác không chỉ phiến diện và giới hạn mà thậm chí còn sai lạc và giả tạo. Một số lớn các vai diễn hiện diện trong câu chuyện Kinh Thánh làm đa dạng hóa các quan điểm để các độc giả định hướng trong trình thuật thông qua kinh nghiệm được những quan điểm khác nhau.

Vài ví dụ có thể làm cho chúng ta hiểu được Kinh Thánh giúp độc giả cân nhắc những quan điểm và mức độ tin cậy khác nhau, nhận ra những lời ban sự sống và những điều dối trá dẫn đến cái chết.

Lời của Chúa và lời của con rắn

Hai câu chuyện trong Stk 1 và Stk 2-3, đọc nối tiếp nhau, là hai trình thuật bổ sung nhau nói về sự sáng tạo, dù rằng có những xung đột giữa hai bản văn đến từ các nguồn khác nhau. Tiếng nói của người kể chuyện được ưu tiên khi kể, với sự toàn tri, ngay cả khi sáng tạo nên thế giới: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (Stk 1,1-2). Nó tường thuật không chỉ điều Chúa nói: “Hãy có ánh sáng” – nhưng còn điều Chúa nghĩ bên trong: “Và Chúa thấy ánh sáng tốt đẹp” (Stk 1,4).

Ngay từ những trang đầu tiên của Kinh Thánh, độc giả được mời gọi đi vào trong tương quan giao ước với người kể, người kể khẳng định tính đáng tin và độc giả tin tưởng vào điều được nói. Thiên Chúa nói trong câu 26: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta”[4] và câu 27 là lời khẳng định của người kể: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”. Thông tin đến từ người kể và từ Thiên Chúa là đáng tin cậy, và hai quan điểm này khớp với nhau.

Chương 2 và 3 có thể được đọc tiếp liền với chương trước. Stk 2-3 có thể được hiểu như là trình thuật “phóng to” (zoom narrative) về sự sáng tạo nên ông Ađam, người nam và người nữ. Theo Jan P. Fokkelman, “Nói đúng ra, câu chuyện thiên đàng trong Stk 2,4b-3,24 không phải là trình thuật phụ về công cuộc tạo dựng mà là một nghiên cứu tinh tế hơn về con người được tạo dựng, nguồn gốc của con người và mối liên hệ nền tảng của con người với Thiên Chúa và thế giới”[5]

Trong Stk 2,8-9 người kể cho độc giả thấy rằng Thiên Chúa làm khu vườn ở Êđen và đưa con người được tạo dựng vào đấy: “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác” (Stk 2,9). Thiên Chúa giao cho con người trách nhiệm kép là cày cấy và canh giữ khu vườn (cf. Stk 2,15). Tới thời điểm này, Thiên Chúa ban mệnh lệnh đôi: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (Stk 2,16-17).

Trên hết, câu nói của Thiên Chúa nêu bật chiều kích tích cực của món quà tặng. Nói về mệnh lệnh của Thiên Chúa, André Wénin khẳng định: “Lệnh này gồm hai phần và người ta thường quên rằng phần thứ nhất chẳng liên hệ gì đến lệnh cấm. Đây là quy định tích cực truyền cho con người ăn mọi thứ cây trong vườn”.[6] Mọi sự được trao ban cho Ađam; ông là vua của khu vườn mà ở trung tâm là cây sự sống trường sinh (cf. Stk 2,9).

Trong phần thứ hai của mệnh lệnh, Thiên Chúa đưa vào một giới hạn, cảnh báo con người: “nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (Stk 2,17).[7] Ađam sẽ làm gì với lệnh truyền này của Thiên Chúa? Ông sẽ giải thích lời của Chúa? Ông sẽ biết cách lắng nghe hay ông sẽ hiểu sai điều được nói với ông?

Trong Stk 3, những lời đầu tiên của con rắn gieo nghi ngờ về ý định tốt đẹp của đấng đã đặt con người vào Vườn Êđen. Con rắn nói với người đàn bà bằng một câu hỏi bẻ cong sự thật, khiêu khích và lừa phỉnh: “Có thật Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?’” (Stk 3,1). Với những lời này, con rắn chuyển tải một hình ảnh về một Thiên Chúa độc tài chuyên chế, thậm chí muốn bỏ đói thụ tạo của mình, lấy đi những lương thực cần thiết để sinh tồn.[8] Tuy nhiên, độc giả biết rằng lời của con rắn không đúng sự thật, vì Thiên Chúa không bao giờ ra lệnh nào như thế; hơn thế nữa, Ngài đã làm điều hoàn toàn khác, ban cho con người mọi cây trái chỉ trừ một cây. Nếu Thiên Chúa cấm ăn trái cây biết lành biết dữ chỉ là để con người khỏi phải chết khi ăn quả từ cây này. Ưu tiên của Thiên Chúa là để con người sống chứ không phải cấm ăn trái cây này.

Người đàn bà trả lời, rụt rè cố bác bỏ lời khẳng định của con rắn: “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: “Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết” Stk 3,2-3). Nhãn quan của Evà dường như bị méo mó. Bà không đồng tình với con rắn song cũng thay đổi những lời của Thiên Chúa, khiến cho lệnh cấm quan trọng hơn món quà tặng.

Hơn nữa, lệnh cấm ăn trái cây giờ đây lại mở rộng sang lệnh sờ vào cây cấm. Theo quan điểm của bà Evà, lệnh cấm còn gắt gao hơn. Ngoài ra, từ cái nhìn của bà, cây cấm được đặt một mình ở giữa vườn trong khi Thiên Chúa đặt cả hai cây ở đấy.[9]  Theo Wénin, “Cây cấm choán hết địa điểm và chính xác trở thành cây che hết cánh rừng có mọi thứ cây đã được ban cho”[10]

Con rắn đã gây nhiễu cho người đàn bà. Trong trò chơi đa quan điểm, thật dễ bị lạc hướng nếu độc giả không thận trọng cân nhắc những quan điểm khác nhau và dùng lời của người kể cũng như lời Thiên Chúa làm thước đo để phân biệt đâu là sự thật. Cái bẫy tin giả của con rắn không giới hạn vào việc làm cho bà Evà mất phương hướng và lẫn lộn: hậu quả được nhắm đến là thao túng và cám dỗ bà Evà, làm cho bà vi phạm Lời của Thiên Chúa. Nọc độc cuối cùng được con rắn tiêm vào là lời nói làm phát sinh ra một Thiên Chúa ganh tỵ muốn giữ người đàn ông và đàn bà ở tình trạng quy phục và yếu kém hơn: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (Stk 3,4-5).

Những lời này thật là dối trá. Tiếng nói của Thiên Chúa và người kể đã bảo với độc giả rằng Ađam, đàn ông và đàn bà, đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa rồi mà (Stk 1,26-27). Người đàn ông và đàn bà không cần phải phấn đấu để trở thành điều họ đã là. Không có trật tự nào phải lật đổ cũng như không có đối thủ nào phải loại bỏ để chiếm lấy lại vị trí của họ. Những Evà đã rơi vào chiếc bẫy của con rắn và không còn tin tưởng vào Thiên Chúa nữa. Theo lời Triết gia Paul Ricœur, “thời đại ngờ vực đã mở ra, sự rạn nứt đã được đưa vào trong điều kiện nền tảng nhất của ngôn ngữ, nghĩa là mối tương quan tin tưởng mà các nhà ngữ học gọi là ‘sincerity clause’”.[11]

Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn” (Stk 3,6). Tâm điểm trong tâm tưởng và ước muốn của người đàn bà chỉ còn là trái cây cấm, trong khi những cây khác cũng ngon cũng đẹp đã biến mất khỏi cái nhìn của bà (cf. Stk 2,9). Con rắn xây dựng một hình ảnh giả dối về một Thiên Chúa độc tài độc đoán, kẻ thù của người đàn ông và đàn bà, gieo ngờ vực và nghi ngại về ý tốt của lời và quà tặng của Ngài. Đức Phanxicô viết: “Chương Kinh Thánh này đưa ra ánh sáng một yếu tố quan trọng để suy tư: chẳng hề có thông tin sai lạc nào mà vô hại; trái lại, tin vào sự giả dối có thể có những hậu quả thảm khốc. Thậm chí chỉ một chút xíu bóp méo sự thật thôi cũng có những hậu quả nguy hại”.[12] 

Phải chăng đa số luôn luôn đúng? (Ds 13–14)

Sau này, trong trình thuật Kinh Thánh, chúng ta gặp thấy dân Israel trên hành trình khó khăn và may rủi về phía đất Canaan. Họ phải quyết định hoặc là tin vào lời hứa của Thiên Chúa hoặc dựa vào nỗi sợ và mối quan tâm của mình. Người Israel sẽ nghe theo tiếng nói nào? Dân chúng sẽ bị lừa phỉnh vì những lời giả dối và chủ bại hay sẽ nghe theo lời của Thiên Chúa?  Lần này, không có một thực thể ngoại tại nào giống như con rắn len vào trong kịch bản mà chính người dân là tác giả của lời nói dối dấy lên nghi ngờ về miền Đất Hứa và làm suy yếu tinh thần của những người đang trên cuộc hành trình.

Ta thấy mình ở chương 12-13 của sách Dân số, dân Israel đứng trước cửa ngõ đất  Canaan sau hành trình băng qua sa mạc. Suốt hành trình, Thiên Chúa chăm sóc và nuôi ăn dân chúng. Chúa sai ông Môisê cử người đi dò thám đất Canaan, tái khẳng định ý muốn giao đất ấy cho dân dân Israel (cf. Ds 13,1-2). Lời của Thiên Chúa là đáng tin và làm cho ý định của Chúa đối với dân chúng trở nên rõ ràng và dứt khoát. Chúa đòi mỗi chi tộc phải có người đại diện trong số những người đi do thám, được chọn trong các kỳ mục. Như vậy, họ sẽ là những người có thẩm quyền và đáng tin trước dân chúng.

Ông Môisê sai những người dò thám đi và hướng dẫn họ vài điều. Sau 40 ngày, họ trở về và báo cáo với dân Israel tất cả những gì họ đã thấy được ở Canaan, cho xem những hoa quả mà họ thu lượm được trong đất ấy. Đến lúc này, trình thuật đưa ra vài lời nói thể hiện những quan điểm khác nhau, tương phản với nhau rõ ràng. Dân chúng sẽ tin lời nào? Lời nào thật lời nào dối? Người kể chuyện toàn tri và lời của Chúa sẽ là la bàn cho người đọc để hiểu sự thật nằm ở đâu.

Tường trình đầu tiên của những người do thám có vẻ tích cực: “Chúng tôi đã vào miền đất ông sai chúng tôi đến. Đúng là miền đất tràn trề sữa và mật, và đây là hoa trái miền ấy. Thế nhưng dân cư miền ấy thì mạnh, thành thị lại kiên cố và rộng lớn lắm; ở đó chúng tôi còn thấy cả con cháu Anak” (Ds 13,27-28). Thật ra, những lời này đã được uốn nắn bài bản để kéo dân chúng vào trong chiếc bẫy.[13] Những người dò thám khẳng định sự trù phú của miền đất mà họ thám thính song đồng thời cũng nói xa nói gần rằng dân Israel không thể tranh giành với những người sống ở đấy được vì họ mạnh hơn và trang bị tốt hơn. Câu nói của những người dò thám được nhào nặn để thao túng dân chúng và làm họ quay đi với những gì Thiên Chúa đã hứa. Họ nói một sự thật (“đất đai trù phú”) song lại làm đổ sụp cái mục đích có thể đạt được và ở gần ngay bên (“Thế nhưng dân cư miền ấy thì mạnh”). Kết quả là làm dân Israel nản lòng, kém tin vào Thiên Chúa, nên sợ đi vào đất Canaan.

Đến đây, một trong những người dò thám là ông Caleb đã cố gắng can thiệp như một đối trọng với những gì đã được những người khác nói và khuyến khích dân chúng kiên trì trong ý định đi vào đất Canaan: “Bấy giờ ông Caleb truyền cho dân đang phản đối ông Môisê phải im lặng, ông nói: “Ta cứ lên chiếm miền ấy, vì chắc chắn ta có thể thắng được.” Những người đã cùng lên với ông đáp lại: “Ta không thể lên đánh dân ấy, vì họ mạnh hơn ta’” (Ds 13,30-31). Caleb thấy mình cô độc giữa đám người dò thám khác ngày càng công khai làm nản lòng và làm suy sụp tinh thần của dân chúng.

Trong cuộc xung đột giữa hai quan điểm đối xứng nghịch nhau này thì người kể toàn tri và đáng tin cậy đã can thiệp. Sự can thiệp của ông hướng dẫn độc giả, những người có nguy cơ mất phương hướng trong trò chơi của những nhãn quan đối nghịch, và phán đoán cách rõ ràng và dứt khoát về lời của những người dò thám: “Trước mặt con cái Israel, họ bắt đầu chê bai miền đất họ đã do thám, họ nói: “Miền đất chúng ta đã đi qua để do thám là đất nuốt những người ở đó, và tất cả những người chúng tôi thấy ở đó đều là những người cao lớn. Ở đó chúng tôi trông thấy những người khổng lồ, con cháu của Anak thuộc giống người khổng lồ. Chúng tôi thấy mình chỉ như châu chấu, và họ cũng coi chúng tôi như vậy.” (Ds 13,32-33).

Các trinh sát đã báo cáo sai lệch về miền đất mà Thiên Chúa đã ban cho dân Israel (cf. Ds 13,1-2). Người kể thuật lại thông tin méo mó và vô căn cứ của họ. Lời nói có vẻ thậm xưng và phóng đại, đầy sự thái quá và mâu thuẫn. Trước hết, miền đất mà trước đây họ nói là tràn trề sữa và mật ong thì bây giờ biến thành miền đất nuốt chửng những người ở đấy.[14] Các trinh sát một lần nữa đề cập đến con cháu của Anak, nhưng lần này họ được diễn tả như thuộc giống người khổng lồ.[15] Miền đất này không còn gì là xinh tươi và tốt đẹp nữa mà như một thực thể thù nghịch và ma quái như trong thần thoại, như miền đất hoang vô hình thù, như vực sâu trước khi tạo dựng (cf. Stk 1,2), trong khi những cư dân Canaan được diễn tả như những quái vật nguyên thủy, những bán thần rơi xuống trái đất (cf. Stk 6,4).

Những người dò thám nhấn mạnh đến các chi tiết và thêm màu sắc cho tường trình của họ để phỉnh lừa dân chúng và thao túng quyết định. Họ gieo những thông tin vô căn cứ và kể những chuyện khó tin, bóp méo những từ ngữ mà chính họ đã dùng trước đây. Nói cách khác, các kỳ mục trong dân, dưới tấm áo choàng quyền bính, đã cung cấp thông tin sai, gây sợ hãi và nản lòng trong dân. Những người dò thám sợ hãi những gì chưa được biết và có thiên kiến về những gì khác biệt và vô danh. Cuối cùng, họ phóng tầm nhìn bị nỗi sợ điều khiển của mình trên cư dân Canaan. Các kỳ mục của dân Israel cảm thấy mình nhỏ bé và nghĩ rằng những người khác cũng nhìn họ như vậy.

Rủi thay, dân chúng bị ảnh hưởng vì những lời nói và nỗi sợ hãi của các trinh sát và tin vào lời nói dối của họ. Ý kiến của đa số các kỳ mục đã thắng tiếng nói đơn độc của Caleb. Vì thế, ý kiến chủ chiến duy nhất đã bị dập tắt. Dân chúng kêu la khóc lóc, sợ hãi và bắt đầu cằn nhằn, tỏ ý bất bình và mất kiên nhẫn với ông Môisê và Aaron.

Cũng đã có những lúc trong hoang mạc dân Israel phàn nàn: ở Mara vì thiếu nước uống (cf. Xh 15,24); sau đó, vì tiếc nuối nồi thịt cùng bánh mì mà họ từng ăn ở Ai Cập (cf. Xh 16,2; 7-8) và một lần nữa vì thiếu nước (cf. Xh 17,3). Tuy nhiên, lần này thì có điều gì đó mới mẻ trong ý định của dân chúng: “Chúng ta hãy đặt lên một người cầm đầu và trở về Ai Cập” (Ds 14,4). Điều có thể được gọi là “nổi nhớ Ai Cập” (nostalgia for Egypt) giờ đã trở thành ước muốn quay về. Dân Israel đảo ngược hết những gì mà Thiên Chúa đã làm khi giải phóng họ khỏi ách nô lệ và họ đã đặt lại vấn đề về quyền bính của ông Môisê và cuối cùng là của Thiên Chúa.

Caleb cùng với Giosua đã mạnh mẽ chống lại “cuộc lật đổ” đã được toan tính và nhắc dân Israel đặt niềm hy vọng của mình vào danh Thiên Chúa[16]: “Vậy anh em đừng nổi loạn chống ĐỨC CHÚA, và đừng sợ dân đất ấy! Chúng ta sẽ nuốt chửng chúng. Thần hộ mệnh chúng đã lìa xa chúng, còn ĐỨC CHÚA thì ở với ta. Đừng sợ chúng!” (Ds 14,9). Lời kêu gọi đừng sợ hãi đã không mang lại hiệu quả vì đám quần chúng bị mù quáng do sợ hãi và phẫn nộ lại còn có ý định ném đá những ai muốn lay tỉnh họ dậy và nói phải trái với họ.

Lời nói dối dẫn đến sợ hãi, và sợ hãi dẫn đến ngưỡng cửa bạo lực, cho đến khi Thiên Chúa can thiệp để chấm dứt cơn điên loạn của dân chúng. Kết quả là việc đi vào đất Canaan bị hoãn lại cho đến thế hệ kế tiếp, trong khi dân Israel phải trải qua 40 năm nữa lang thang trong sa mạc trước khi họ thấy miền đất mà Thiên Chúa có ý ban cho họ (cf. Ds 14,29-30).

Đầu câu chuyện, lời của Chúa loan báo rằng đất Canaan sẽ thuộc về dân Israel. Tiếng nói dịu dàng và đáng tin này lại yếu ớt vang lên trong tai của dân chúng, họ thích nghe những lời cường điệu của những trinh sát đầy huênh hoang. Như thế, sự sợ hãi đánh đổ lòng tin cậy. Khi sự tương phản giữa hai quan điểm khác nhau gây khó cho độc giả thì người kể chuyện can thiệp để làm sáng tỏ. Người kể hướng dẫn độc giả phân định lời nói dối được đa số ủng hộ với sự thật chỉ được hai người khẳng định là các ông Caleb và Giosua.

Kết luận

Có thể nào nói rằng lời nói có tính thuyết phục là lời đáng tin cậy hơn không? Hay những lời cường điệu và mạnh mẽ là đáng tin nhất? Một ý kiến được đa số ủng hộ có đương nhiên là sự thật? Các trình thuật trong Sáng Thế Ký chương 3 và sách Dân Số các chương 13-14 chứng minh rằng sự thật bị vặn vẹo đã đặt ra vấn đề phân định cho độc giả. Lời nào là sự thật và đưa dẫn đến sự sống?

Điều lừa phỉnh người đàn bà là những mối nghi ngờ len lỏi vào từ những lời dụ dỗ thuyết phục của con rắn, cùng với lời hứa hấp dẫn là trở nên giống như Chúa. Nhưng người kể đã vạch trần sự dối trá và âm mưu, nói cho độc giả lời đáng tin và chân thật của Thiên Chúa. Câu chuyện trong sách Dân Số, sự lừa dối dựa trên nỗi thất vọng của dân chúng, gieo ảo tưởng và sợ hãi cũng như lo lắng trước điều mới mẻ và nỗi sợ người lạ, những người được xem như mối nguy hại to lớn. Trong sự năng động của câu chuyện, một độc giả tinh ý sẽ có thể nhận ra trò chơi của những quan điểm đối chọi nhau, tin tưởng vào người kể chuyện và lời hứa của Thiên Chúa.

Thậm chí cho đến ngày nay, những trình thuật này có thể giúp độc giả minh xác đâu là điều đáng tin trong vô số những lời khẳng định mình mới là sự thật, nhận ra những động lực bẻ cong thực tại và thao túng phán đoán bằng cách nhắm vào những cảm xúc dễ bị khích động. Sách Châm Ngôn khẳng định: “Người công chính nghĩ suy rồi mới đáp, miệng kẻ ác tuôn trào chuyện xấu xa” (Kn 15,28). Trong một thế giới cuồng loạn những tin tức và ý kiến, Kinh Thánh mời gọi chúng ta đừng để mình bị lấn áp nhưng hãy dừng lại, suy tư và ngẫm nghĩ, đừng để mình bị cuốn theo tính tức thì của khẩu hiệu đang rình rập để tóm lấy nỗi sợ hãi hay đưa ra những lời hứa có sức thu hút nhưng rỗng tuếch.

Trong tiếng Hípri, từ emet, “chân lý” xuất phát từ động từ ’mn và có nghĩa là “vững chắc, ổn định, cứng rắn và trung tín” và vì thế cũng có nghĩa là “được an toàn, chắc chắn và đúng đắn”. Sự tin tưởng này chỉ được đặt vào Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với dân chúng và là người bảo đảm cho sự sống và tự do đích thực. 

Tác giả: Vincenzo Anselmo, SJ
Nguồn: 
laciviltacattolica.com
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính

__________

[1] Về chủ đề này, xin xem F. Occhetta, “Tempo di post-verità o di post-coscienza?” trong Civ.Catt. 2017 II, tr. 215-223.

[2] Francis, Message for World Communications Day. “The truth will set you free (Jn 8:32). Fake news and journalism for peace,” trong w2.vatican.va/content/francesco/en/
messages/communications/documents/papafrancesco_20180124_messaggio-comunicazioni-sociali.html.

[3] Để hiểu rộng hơn về mẫu trình thuật trong Kinh Thánh, xin xem J.- P. Sonnet, “L’analisi narrative dei racconti biblici,” trong M. Bauks – C. Nihan (eds), Manuale di esegesi dell’Antico Testamento, Bologna, EDB, 2010, 45-85.

[4] Các câu trích Kinh Thánh trong bài là bản dịch Việt ngữ của nhóm CGKPV. 

[5] J. P. Fokkelman, Come leggere un racconto biblico, Bologna, EDB, 2015, 132.

[6] A. Wénin, Da Adamo ad Abramo o l’errare dell’uomo. Lettura narrativa e antropologica della Genesi. I. Gen 1,1–12,4, Bologna, EDB, 2008, 45.

[7] Theo T. N. D. Mettinger, bản văn Stk 2,17 là lời cảnh báo về mối nguy của sự chết hơn là lời kết án nghiêm trọng (cf. T. N. D. Mettinger, The Eden Narrative: A Literary and Religio–historical Study of Genesis 2–3, Winona Lake [IN], Eisenbrauns, 2007, 22).

[8] Trong câu chuyện tạo dựng, Thiên Chúa nói: “Này, Ta ban cho các ngươi mọi hạt nảy sinh ra cây trên mặt đất và mọi cây có hạt bên trong trái của chúng; các ngươi sẽ có chúng làm thức” (Stk 1,29). Về quan điểm này, xin xem A. Wénin, Da Adamo ad Abramo o l’errare dell’uomo…op. cit., 30-32.

[9] Theo Paul Joüon, câu nói “cây sự sống cũng ở giữa vườn, và cây biết lành biết dữ” (Stk 2,9) là dãy hạn từ liên kết với nhau nhưng được phân chia bằng một yếu tố chêm vào: “ở giữa vườn”. Vì thế, cả hai cây đều ở giữa vườn Êđen (xem P. Joüon – T. Muraoka, A Grammar of Biblical Hebrew, Rome, Gregorian and Biblical Press, 20112, 117t).

[10] A. Wénin, Da Adamo ad Abramo o l’errare dell’uomo…op. cit., 69.

[11] A. LaCocque – P. Ricœur, Come pensa la Bibbia. Studi esegetici ed ermeneutici, Brescia, Paideia, 2002, tr. 60.

[12] Francis, Message for World Communications Day…op. cit., số. 2.

[13] Theo D. T. Olson, trong tường trình đầu tiên, các trinh sát đã không nói đúng và không nhận xét. Nếu trường hợp này xảy ra, những khác biệt và mâu thuẫn giữa hai tường trình thậm chí còn rõ ràng hơn nữa: xem D. T. Olson, Numeri, Turin, Claudiana, 2006, tr. 93.

[14] Cf. Ibid., tr. 94.

[15] Bản tiếng Hy Lạp nói đến “những người khổng lồ” trong khi bản tiếng Hípri là  nefilim, nghĩa là “những kẻ sa ngã”, xuất phát từ động từ nfl, “ngã xuống”. Theo Stk 6,4 họ được xem như những nhân vật thần thoại có lẽ được sinh ra từ sự kết hợp giữa các con trai của thần thánh với con gái của loài người, nhưng bản văn không rõ ràng. Những bán thần này đã bị tuyệt chủng trong trận đại hồng thủy, càng có lý do để không tin vào những lời của các trinh sát (về nefilim, xin xem R. S. Hendel, “Of Demigods and the Deluge: Toward an Interpretation of Genesis 6:1-4,” trong Journal of Biblical Literature 106 [1987] tr. 13-26).

[16] Caleb và Giosua không đầu hàng áp lực đám đông cũng không tuân theo ý kiến được đa số lựa chọn. Theo nghĩa nào đó, họ bày tỏ sự độc lập của mình với tâm lý xã hội được biết dưới tên gọi là “Asch effect” (hiệu ứng Asch hay hiệu ứng bầy đàn), điều xảy ra khi một niềm tin sai lạc, được đa số ủng hộ, sẽ ảnh hưởng đến ý kiến của người khác là những người đồng hóa ý kiến của riêng mình với đa số. Về hiệu ứng Asch, xin xem R. Kreitner – A. Kinicki, Comportamento organizzativo, Milan, Apogeo, 2004, tr. 402-404.

Nguồn: gpquinhon.org