XÔNG HƯƠNG TRONG THÁNH LỄ

HƯƠNG TRONG KINH THÁNH, Ý NGHĨA THẦN HỌC, LỊCH SỬ VÀ NGHI THỨC

 

 

Một số bạn trẻ hỏi: xông hương khi nào và xông như thế nào trong thánh lễ? Trên cơ sở Sách lễ Rôma được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chấp thuận những sửa đổi và chuẩn nhận ấn bản mẫu năm 2002 tái bản lần III. Trong đó số 276 và số 277 thuộc Quy chế Tổng quát qui định nghi thức xông hương trong thánh lễ. Vậy trước khi biết xông hương khi nào và xông hương như thế nào cũng nên biết: hương được nói đến trong Kinh thánh như thế nào, ý nghĩa thần học và vài nét lịch sử của nó trong phụng vụ.

 

 

 

  1. HƯƠNG ĐƯỢC NÓI ĐẾN TRONG KINH THÁNH

Thời Cựu ước, Giavê Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê xây một bàn thờ đặc biệt dành riêng để dâng hương thờ phượng Ngài. Sách Xuất Hành chương 30 ghi lại rằng:

“Ngươi sẽ làm một bàn thờ để đốt hương; ngươi sẽ làm bằng gỗ keo. Hương án đó sẽ dài nửa thước, rộng nửa thước – nghĩa là hình vuông – và cao một thước; các góc hình sừng làm thành một khối với hương án… Trên đó, Aharon sẽ đốt hương thơm: sáng nào, ông ấy cũng đốt hương thơm khi chuẩn bị dầu đèn, và lúc Aharon thắp đèn lên vào chập tối, ông ấy cũng sẽ đốt hương thơm: đó là hương vĩnh viễn dâng trước nhan Đức Chúa qua mọi thế hệ của các ngươi” (Xh 30, 1-2, 7-8).

Hương được đặt trên lễ vật toàn thiêu tại bàn thờ như là việc dâng hy lễ tưởng niệm. “hương thơm êm dịu dâng lên Chúa” (x. Lv 2). Sau này, trong đền thờ Giêrusalem, vào ngày lễ xá tội vị thượng tế vén tấm màn ngăn đi vào nơi cực thánh để đốt cháy 2 nắm hương bột có mùi thơm. Lúc bấy giờ khói hương dày đặc và hương thơm tỏa khắp nơi cực thánh trong đó có đặt hòm giao ước (x. Lv 16, 12-13). Tại Israel, người ta xông hương cho những người, những đồ vật và những nơi dành riêng cho việc thờ phượng Thiên Chúa duy nhất. Tất cả họ tham gia vào việc thờ phượng Thiên Chúa, họ được mời gọi loan truyền hương thơm tinh thần êm dịu: “Các ngươi hãy nghe, các con trai thánh … các ngươi hãy tỏa như hương trầm thơm tho tốt lành” (Hc 39,13-14).

Xông hương buộc thực hiện trong tôn giáo của người Israele nhưng các ý nghĩa biểu tượng thì xuất hiện muộn hơn, kể cả trong phụng vụ Kitô giáo, trước hết là trong giáo hội Đông phương.

Trong Tin Mừng Matthêu, đã miêu tả lòng sùng kính đối với Chúa Giêsu Hài Đồng của các đạo sĩ, người ta gọi họ là 3 vua. Họ đến từ vùng đất Đông phương xa xôi để gặp vua dân Do Thái. Họ dâng cho Ngài những thứ quý giá đựng trong hộp, là: vàng, mộc dược và nhũ hương (x. Mt 2, 11).

Thánh Phaolô huấn dụ tín hữu Kitô rằng: “Tôi nài van anh em, trong tình thương của Thiên Chúa: hãy hiến dâng toàn thân và đời sống anh em như hy lễ thánh thiện, thơm tho lên cùng Thiên Chúa” (Rôma 12, 1). Theo thánh Phaolô, tất cả các tín hữu, với chứng tá đức tin của mình họ làm lan tỏa trên thế giới hương thơm của Đức Kitô và dâng lên Chúa Cha “trong hiến lễ thơm tho diệu vợi” (x. 2 Cor 2,14-16; Ef 5,2).

  1. Ý NGHĨA THẦN HỌC

Thánh vịnh 142 câu 2 nói việc xông hương là dấu chỉ diễn đạt sự cung kính và như lời nguyện cầu dâng lên Thiên Chúa.

“Ước chi lời con nguyện như hương trầm bay toả trước Thánh Nhan,

và tay con giơ lên được chấp nhận như của lễ ban chiều” (Tv 141, 2).

Con người nối kết với Thiên Chúa và thờ phượng Đấng Tối Cao qua các lễ nghi. Các lễ nghi đó được diễn đạt và thể hiện qua các biểu tượng, những dấu hiệu, những cử chỉ vật lý trong lãnh vực của con người. Việc thờ phượng Thiên Chúa được diễn đạt không chỉ trong tâm hồn nhưng cả ngoài thể xác. Mùi thơm êm dịu của trầm hương, chắp tay, cúi đầu… chúng làm cho người ta cảm nhận và dễ dàng đi vào bầu khí của mầu nhiệm thánh đang cử hành.

Lý thuyết của việc xông hương có một dấu hiệu đặc thù hy tế như của lễ toàn thiêu. Đốt hương, xông hương giống như việc đốt cháy một vật quý giá với ý hướng dâng hiến nó cho Thiên Chúa. Khói hương trầm thơm bay lên gợi lại không gian đền thờ Giêrusalem nơi người ta thờ phượng Giavê Thiên Chúa, với Ngài người ta dâng tế vật toàn thiêu cùng với hương thơm êm ái. Ý nghĩa này hiển nhiên vẫn còn đầy đủ nội dung trong nghi thức dâng hiến lễ vật và xông hương trong thánh lễ.

  1. VÀI NÉT LỊCH SỬ VỀ VIỆC DÙNG HƯƠNG TRONG PHỤNG VỤ

Tại dân ngoại, hương được đốt cháy trước những tượng ảnh của các vị thần hay trước hoàng đế để nhìn nhận và tôn kính họ. Trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, đông đảo các tín hữu bị tử đạo vì đã từ chối thực hiện những cử chỉ sùng bái hoặc xông hương cho hoàng đế hay ngẫu tượng. Những sức mạnh lôi cuốn không hay từ những cuộc bách hại đạo hay những cuộc bắt bớ các tín hữu đi lưu đày, để phân biệt giữa Kitô giáo và dân ngoại, việc dùng hương trong phụng vụ bị bãi bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên việc dùng hương được phục hồi sau khi hoàng đế Constantinô ra chỉ dụ Milanô năm 313 công nhận đạo Kitô hợp pháp, chấm dứt các cuộc thảm sát các Kitô hữu trong toàn đế quốc và bắt đầu sự suy tàn của dân ngoại. Tại Rôma người ta không dùng bình hương, đỉnh hương hay cây hương như ở Đông phương mà sử dụng một ít hương trong một cái hộp thích hợp để tỏa mùi thơm.

Thế kỷ thứ IV (thời kỳ vàng của phụng vụ), những cuộc hành hương Egeria nổi tiếng đến viếng Mộ thánh tại Giêrusalem, đã mô tả sự phát triển của phụng vụ. Mỗi khi cộng đoàn “hát 3 thánh vịnh thì 3 lần dùng bình hương xông bên trong Mộ thánh, và như thế tất cả vương cung thánh đường Mộ thánh tràn đầy mùi hương thơm” (Nhật Ký Hành Hương 24, 10) [1]. Việc xông hương trọng thể nơi Đức Kitô được an táng và đã phục sinh đã duy trì và về sau được ghi vào trong sách nghi lễ của các giám mục. Tập tục xông hương nơi Mộ thánh gợi lại hình ảnh mấy phụ nữ mang dầu thơm đến để ướp xác Chúa nhưng trái lại họ đã được thiên thần báo cho hay Chúa đã Phục sinh vinh quang (x. Mc 1,6).

Việc xông hương lễ vật được đưa vào trong phụng vụ Carôlingia (thời Charlemagne) từ thế kỷ thứ IX và thực sự đưa vào phụng vụ Rôma từ thế kỷ XI.

Trong các Sách lễ nghi Rôma cổ có quy tắc chặt chẽ, ấn định việc dùng hương trong các thánh lễ, đặc biệt trong các lễ kính và lễ trọng không thể thiếu việc xông hương. Nhưng trong Sách lễ “Missale Romanum” các ấn bản được ban hành sau Công đồng chung Vaticanô II thì việc dùng hương được mở rộng và tự do. Việc mở rộng và tự do dùng hương trong phụng vụ đã có giai đoạn người ta hiểu và áp dụng chưa đúng với tinh thần của Công Đồng do việc dịch những ẩn ý của các chỉ dẫn chữ đỏ trong sách phụng vụ.

Ví dụ số 276 trong phần Tổng tắc lễ qui Rôma: Việc sử dụng hương trong tiếng latinh là ad libitum, trong các Sách lễ bằng tiếng bản xứ người ta đã dịch thuật ngữ này với nhiều ý khác nhau:

Trong Sách lễ Rôma bản văn tiếng Việt dịch theo bản Missale Romanum 1975 trang 57 số 235 quy chế tổng quát, thì dịch là “có thể tùy nghi dùng hương” trong bất cứ hình thức thánh lễ nào. Trong Sách lễ Rôma bản văn tiếng anh dịch theo bản Missale Romanum 1970 trang lviii (58) số 235 quy chế tổng quát, thì dùng từ “optional” nghĩa là việc dùng hương thì nhiệm ý không bắt buộc trong bất cứ hình thức thánh lễ nào. Trong Sách lễ Rôma bằng tiếng Ý bản dịch của Hội đồng Giám mục Ý (Conferenza Episcopale Italiana: CEI) thì dùng từ “a piacere” có nghĩa là tùy thích dùng hương.

Và như vậy dùng hương trong tất cả các thánh lễ đã trở nên một cách đơn giản tùy nghi không bắt buộc. Với các nội dung dịch như thế nó đã in sâu vào trong tâm thức của hàng giáo sĩ, việc dùng hương trong thánh lễ là tùy ý với ý nghĩa là đừng làm. Thậm chí có người còn cho rằng đó là việc hào nhoáng vô ích.

Trái lại Ad libitum, thành ngữ latinh này có nghĩa chính xác là thích, tùy ý. Nghĩa khác là không bắt buộc, nhiệm ý, không đòi hỏi (đều có nghĩa là không bắt buộc). Đó là tùy ý trong nghĩa tích cực, nghĩa là người ta có quyền dùng nó, nhưng nghĩa này trong tiếng Việt, tiếng Anh hay nhiều tiếng khác không diễn đạt để hiểu thấu được.

  1. NGHI THỨC XÔNG HƯƠNG TRONG THÁNH LỄ

Sách lễ Rôma, được thực hiện theo nghị quyết của thánh Công đồng chung Vaticanô II, được Đức Thánh Cha Phaolô VI chuẩn nhận ấn bản mẫu năm 1970, tu chính và tái bản lần II năm 1975. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chấp thuận những sửa đổi và chuẩn nhận ấn bản mẫu năm 2002 tái bản lần III [2]. (Nhiều cộng đoàn người Việt tại hải ngoại hay tại Việt Nam khi cử hành thánh lễ vẫn còn dùng Sách lễ Rôma dịch theo ấn bản 1975). Số 276 và 277 trong Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma năm 2002 quy định nghi thức sử dụng hương trong thánh lễ như sau:

XÔNG HƯƠNG KHI NÀO ?

Số 276 Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma [3]

Việc xông hương có thể tùy nghi sử dụng trong bất cứ nghi thức thánh lễ nào. Có thể sử dụng trong các thánh lễ nhớ buộc hay lễ nhớ tùy và cả trong các thánh lễ thường ngày.

– Trong khi đi rước ra bàn thờ.

– Lúc đầu thánh lễ xông hương thánh giá và bàn thờ.

– Khi đi rước sách Tin Mừng và trước khi công bố Tin Mừng.

– Khi bánh rượu đặt trên bàn thờ, xông hương của lễ, thánh giá, bàn thờ, linh mục chủ tế (linh mục đồng tế nếu có) và dân chúng.

– Khi giơ Mình Thánh và Chén Thánh lên sau truyền phép.

XÔNG HƯƠNG THẾ NÀO ?

Số 277 Quy chế tổng quát Sách lễ Rôma [4]

Linh mục khi bỏ hương vào bình thì thinh lặng và làm phép bằng một dấu thánh giá.

Người xông hương, trước và sau khi xông thì cúi đầu đối với những người, những sự vật được xông hương, nhưng không cúi đầu đối với bàn thờ và của lễ để hiến tế trong thánh lễ.

Ba lần đưa bình hương lên [5] xông [6] đối với:

– Mình Thánh Chúa

– Tượng chịu nạn (Thánh Giá).

– Các tượng hay ảnh Chúa khi trưng bày công khai để tôn kính

– Những của lễ trên bàn thờ để hiến tế trong thánh lễ.

– Thánh giá trên bàn thờ

– Sách Tin Mừng

– Nến Phục sinh

– Linh mục

– Cộng đoàn.

Hai lần đưa bình hương lên xông đối với:

– Các di tích của các thánh (ví dụ: di hài các thánh…)

– Các ảnh, tượng các thánh được đặt công khai tôn kính.

Và chỉ xông một lần vào lúc bắt đầu cử hành thánh lễ, tức là khi xông hương bàn thờ.

* Đối với bàn thờ thì xông đơn [7], theo cách thức sau:

– Nếu bàn thờ tách rời với vách tường thì linh mục xông xung quanh bàn thờ.

– Nếu bàn thờ một mặt gắn liền hay sát với vách tường thì linh mục xông bên phải rồi xông bên trái bàn thờ.

* Đối với tượng chịu nạn: Nếu tượng chịu nạn được đặt trên bàn thờ hay kế cận bàn thờ, thì xông tượng chịu nạn trước khi xông bàn thờ, nếu không thì sẽ xông tượng chịu nạn khi linh mục đi ngang qua.

Linh mục xông hương những lễ vật trước việc xông hương tượng chịu nạn và bàn thờ với ba cú, mỗi cú hai lắc; hoặc xông với việc lắc bình hương theo hình thánh giá và hình tròn trên lễ vật [8].

  1. SƠ ĐỒ THEO NGHI THỨC CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI

(Incensum – Istud – A te – Benedictum – Ascendat – Ad te Domine)

(Et descendat super nos – Misericordia – Tua)

 

 

Lm. Giuse Thiện Tĩnh
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN số 77 (tháng 7 & 8 năm 2013)
Nguồn: Truyền thông HĐGMVN

 

Tham chiểu và chủ thích:

[1] EgEria, Diario Di Viaggio, Paolile Editoriale Libri, Rôma 21999, (24, 10).

[2] Missale Romanum, Typis Vaticanis 3MMII, 4; http://www.ewtn.com/library/CURIA/cdwl- grm.htm

[3] Missale Romanum, Missale Romanum, Institutio Generalis Missalis Rômani 276, Typis Vaticanis 3MMII, tr 63.

De incensatione

Thurificatio seu incensatio reverentiam exprimit et orationem, ut in Sacra Scriptura significatur (cf. Ps. 140, 2; Apoc. 8, 3). Incensum ad libitum adhiberi potest in qualibet forma Missae:

  1. durante processione ingressus;
  2. initio Missae, ad crucem et altare thurificandum;
  3. ad processionem et ad proclamationem Evangelii;
  4. pane et calice super altare depositis, ad thurificanda oblata, crucem et altare, necnon sacerdotem et populum;
  5. ad ostensionem hostiae et calicis post consecrationem”.

[4] Missale Romanum, Missale Romanum, Institutio Generalis Missalis Rômani 277, Typis Vaticanis 3MMII, tr 64.

“Sacerdos, cum incensum ponit in thuribulum, illud benedicit signo crucis, nihil dicens. Ante et post thurificationem fit pro- funda inclinatio personae vel rei quae incensatur, altari et obla- tis pro Missae sacrificio exceptis.

Tribus ductibus thuribuli incensantur: Ss.mum Sacramentum, reliquia sanctae Crucis et imagines Domini publicae veneratio- ni expositae, oblata pro Missae sacrificio, crux altaris, Evange- liarium, cereus paschalis, sacerdos et populus.

Duobus ductibus incensantur reliquiae et imagines Sanctorum publicae venerationi expositae, et quidem initio tantum celebrationis, cum incensatur altare.

Altare incensatur singulis ictibus hoc modo:

– si altare est a pariete seiunctum, sacerdos illud circumeundo incensat;

– si vero altare non est a pariete seiunctum, sacerdos transeun- do incensat primo partem dexteram, deinde partem sinistram.

Crux, si est super altare vel apud ipsum, thurificatur ante altaris incensationem, secus cum sacerdos transit ante ipsam.

Oblata incensat sacerdos tribus ductibus thuribuli, ante incensationem crucis et altaris, vel signum crucis super oblata thuribulo producens”.

[5] Có nơi gọi là ba cú, mỗi cú hai lắc.

[6] Lắc bình hương về phía đối tượng được xông. Trong Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma không ấn định mấy lần lắc bình hương, nhưng thực hành trong các thánh lễ đại triều tại Rôma thường chủ tế lắc hai lần.

[7] Một cú, mỗi cú hai lắc.

[8] Sơ đồ xông hương theo nghi thức của Đức giáo hoàng Phaolô VI, Sách lễ Rôma.