Theo cách riêng của mình, Thánh Têrêsa Lisieux đã khám phá ra cùng một sự thật mà Thánh Phaolô đã bày tỏ: “Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.” (2 Cr 12:10). Bây giờ Chị ấy mời mỗi chúng ta trải nghiệm nó cho chính mình.
Thánh Têrêsa Lisieux, thường được gọi là Bông Hoa Nhỏ, qua đời năm 1897 ở tuổi hai mươi tư. Nếu Chị ấy sống đến chín mươi tuổi, như hai người chị em ruột thịt của Chị ấy, Chị sẽ chết vào năm 1963. Do đó, theo một nghĩa nào đó, Chị là người cùng thời với chúng ta. Như Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói khi phong Chị là Tiến sĩ Hội Thánh vào năm 1997, Chị đã mang đến cho chúng ta sự hiểu biết đương đại về tình yêu, bản chất của Phúc Âm.
Nhưng chính xác thì chúng ta có thể học được gì từ Têrêsa? Chị ấy dường như đã rời xa những thách thức và khó khăn mà chúng ta phải đối mặt ngày nay. Rốt cuộc, Chị đã dành chín năm cuối cùng của mình trong một tu viện đông đúc ở Pháp. Chưa kể rằng Chị thường được giới thiệu như một vị thánh tình cảm và thậm chí ngọt ngào; là người sống trong tâm tình đạo đức bình dân và không có gì xáo trộn.
Do đó, có thể ngạc nhiên khi một trong những lời dạy quan trọng nhất của Têrêsa liên quan đến cách xử lý những cảm giác và cảm xúc rắc rối hơn mà tất cả chúng ta đã quá quen thuộc — chẳng hạn như nguy hiểm, thù địch và u sầu, cũng như mong muốn được chú ý và công nhận. Hơn nữa, những lời dạy này không phải là những suy nghĩ trừu tượng. Các bài viết của Chị chứa đựng nhiều ví dụ về cách Chị ấy nhận thấy cảm xúc của mình, khám phá chúng và thu lợi từ chúng.
Theo thời gian, Têrêsa phát hiện ra rằng những cảm giác và cảm xúc của con người – bao gồm cả những cảm xúc khiến chúng ta khó chịu nhất – thực sự có thể là những lời chúc phúc được ngụy trang. Chị ấy thấy rằng nếu Chị tiếp cận chúng với tinh thần đúng đắn, chúng thậm chí có thể trở thành bàn đạp cho sự thánh thiện. Ví dụ của Chị ấy cho chúng ta thấy con đường.
Cảm xúc và Thất bại. Tự truyện của Têrêsa, “Chuyện một tâm hồn”, vẽ nên một bức tranh thực tế về những cảm xúc và tính cách ngỗ ngược mà Chị thánh phải đối mặt. Một là sự bướng bỉnh. Một yếu tố khác là nhu cầu được chấp thuận không lành mạnh mà Chị bắt đầu thể hiện vào khoảng 4 tuổi, sau khi mẹ chị qua đời. Têrêsa bắt đầu làm hài lòng cha và bốn chị gái, tất cả đều yêu thương chị như em bé trong gia đình. Chị ấy cũng quá nhạy cảm, “thực sự không thể chịu đựng được vì tính tôi cực kỳ nhạy cảm.”
Tuy nhiên, từ rất sớm, Têrêsa đã yêu Chúa Giêsu. Chị muốn đi theo Ngài, sửa chữa lỗi lầm của mình và trở thành một vị thánh. Chị ấy cảm thấy rằng bên trong mình không thực sự tự do, và Chị ấy muốn kiểm soát tốt hơn hành động và cảm xúc của mình— “không phải là nô lệ mà là tình nhân của chúng.”
Trong mười năm, Têrêsa đã áp dụng sức mạnh ý chí ghê gớm của mình vào mục tiêu hoàn thiện này thông qua việc hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, cuối cùng, Chị phải thừa nhận rằng việc đó chẳng đi đến đâu cả. Chị ấy vẫn tự cho mình là trung tâm và bị quăng ném bởi những cảm giác mà Chị ấy không thể quản lý được. Bằng sự phấn đấu có ý chí của mình, Chị ấy đã thực sự bạo lực với con người thật của mình.
“Đêm của ánh sáng.” Bước ngoặt xảy ra khi Têrêsa từ bỏ việc cố gắng biến mình thành vị thánh mà Chị muốn trở thành và thay vào đó, để Chúa biến đổi mình thành vị thánh như chị đã được sinh ra. Chuyện xảy ra vào sáng Giáng Sinh năm 1886, chỉ vài ngày trước sinh nhật lần thứ mười bốn của Chị.
Nhìn bề ngoài, nó giống như một sự kiện tầm thường: Têrêsa tình cờ nghe bố nhận xét một cách sốt ruột rằng ông sẽ rất vui khi Chị làm tốt hơn một phong tục Giáng Sinh trẻ con nào đó. Thông thường, lời nhắc nhở nhẹ nhàng này sẽ khiến Chị rơi nước mắt. Thay vào đó, Chị đột nhiên kiểm soát được cảm xúc của mình và tham gia lễ kỷ niệm của gia đình với sự bình tĩnh và vui vẻ thực sự.
Têrêsa gọi đây là “đêm của ánh sáng”, khi Chị nhận được một sức mạnh nội tâm mới và sự tin tưởng rằng Chúa sẽ bù đắp cho sự yếu đuối của Chị. Ngài sẽ giúp Chị gạt bỏ mối bận tâm và bạo lực với bản thân sang một bên và làm cho tình yêu của Chị hướng đến mối quan hệ đến những người khác.
Têrêsa phát hiện ra rằng công việc biến đổi này không là “công việc” của chúng ta. Chúa Giêsu chỉ cần “thiện chí” — “sự sẵn lòng” của chúng ta —để hợp tác với Ngài và để Ngài biến đổi chúng ta. Và vì vậy, không bao giờ Chị dùng cách nóng nảy để khuất phục cảm xúc của mình. Đúng hơn, với tinh thần tự do và tin cậy phục tùng Thiên Chúa, Chị đã hành động với cảm xúc của mình, (nghĩa là) làm những gì Chúa yêu cầu ở Chị. Khi thất bại, Chị chấp nhận những cảm xúc đi kèm với thất bại của mình và tiếp tục tiến bước.
Khi học được cách đối phó với những cảm xúc ngỗ ngược này, Têrêsa đã phát triển ba chiến lược liên quan đến nhau để giúp chính bản thân mình: kiên trì cầu nguyện; đặt mọi cảm xúc vào trong ánh sáng của niềm tin; và không cho phép tình cảm của mình xem người khác là kẻ thù.
Cầu nguyện kiên trì. Là một nữ tu trong Dòng kín, Têrêsa trung thành đọc kinh, dùng sách cầu nguyện và cầu nguyện chung với các chị em Dòng Cát Minh của mình. Tuy nhiên, đối với Chị, về cơ bản, cầu nguyện là một vấn đề để sẵn sàng đối với một Thiên Chúa yêu thương trong những trải nghiệm bình thường của cuộc sống hàng ngày. Để giúp duy trì khả năng sẵn có này, Chị thường “than thở” bằng những lời cầu nguyện ngắn, khám phá cảm xúc của mình với Chúa ngay khi Chị nhận ra chúng.
Như một đứa trẻ yêu quý sẽ nói chuyện với cha mẹ của mình, Chị đã nói với Chúa về những niềm vui và nỗi đau của Chị, những thành công và thất bại của Chị. Chị đã từng nói:
Tôi không… tìm kiếm những lời cầu nguyện đẹp đẽ trong sách. Có rất nhiều… nó thực sự làm tôi đau đầu!… Tôi thích những đứa trẻ không biết đọc, tôi nói rất đơn giản với Chúa những gì tôi muốn nói,… và Ngài luôn hiểu tôi.
Trò chuyện thân tình (Heart-to-heart) trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa là cách chính yếu mà Têrêsa giải quyết những cảm xúc khó chịu của mình. Chị cầu xin Ngài giúp đỡ, bày tỏ lòng biết ơn và kiên trì cầu nguyện – ngay cả trong những lúc Chị cảm thấy đau khổ vì Chúa dường như vắng mặt. Bất kể tình huống nào – ngay cả khi Chị bị cám dỗ để trở nên buồn bã sau khi ngủ gật trong lúc cầu nguyện – Têrêsa đã mang những cảm xúc khó chịu của mình đến với Chúa Giêsu, dâng hiến cho Ngài sự yếu đuối của mình.
Bước đi trong ánh sáng. Khi Têrêsa phát triển thói quen chia sẻ mọi cảm xúc với Thiên Chúa, Chị càng tin chắc rằng dù mình cảm thấy thế nào, Chị vẫn ở trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Sự bảo vệ này giúp Chị có thể đối mặt với cả những điểm yếu lớn nhất của mình mà không cần phải e dè.
Dần dần, Têrêsa nhận ra rằng cảm xúc của Chị tiết lộ một sự thật về cá tính và những mong đợi trước mắt. Ví dụ, vì được nuông chiều từ nhỏ, Chị đã không chuẩn bị sẵn sàng để đảm nhận những công việc dọn dẹp nhà cửa thông thường được giao khi Chị vào dòng Cát Minh lúc mười lăm tuổi. Chị cũng không chuẩn bị cho những lời chỉ trích mà Chị nhận được — Chị cũng đã mong đợi các nữ tu đánh giá cao Chị. Cảm giác hụt hẫng, bị từ chối và tổn thương của Têrêsa phản ánh một thực tế hiển nhiên: Chị thực sự không đủ khả năng để thực hiện nhiệm vụ trong tay, và những kỳ vọng của Chị đối với các nữ tu là không thực tế.
Nhưng những cảm giác này không nói cho Têrêsa biết toàn bộ sự thật. Toàn bộ sự thật là Thiên Chúa yêu thương Chị cho dù Chị có cảm thấy khó chịu thế nào đi nữa: Ngài không từ chối Chị vì những khuyết điểm đó.
Nhiều năm sau, Têrêsa đã thành công trong việc tư vấn cho các nữ tu trẻ hơn. Mặc dù rất vui mừng, Chị biết rằng cảm giác dễ chịu cũng không phải là toàn bộ sự thật. Thay vì chúc mừng bản thân, Chị cảm ơn Chúa vì Chúa Thánh Thần làm việc trong Chị, nguồn gốc thực sự dẫn Chị đến sự thành công.
Tất nhiên, những lỗi lầm và thất bại của Têrêsa khiến Chị không hài lòng, nhưng Chị đã học được rằng chỉ có một cách để đối phó với chúng. Như Chị đã từng khuyên người chị em của mình: “Nếu bạn sẵn sàng thanh thản chịu thử thách không bằng lòng với chính mình, thì bạn sẽ … [đối với Chúa Giêsu] là một nơi trú ẩn dễ chịu.”
Quyết tâm mang mọi cảm xúc đến với Chúa của Têrêsa đã được thử thách trong những ngày cuối cùng của Chị. Bị tàn phá bởi bệnh lao, bị cản trở bởi cảm giác đen tối rằng Thiên Đàng không tồn tại và chỉ có hư vô đang chờ đợi Chị, Chị đã trải qua những cám dỗ đáng sợ muốn tự tử.
Kết hợp với những cảm xúc khủng khiếp này là cảm giác bị cô đơngiữa các chị em của mình. Têrêsa cố gắng không chia sẻ nỗi đau khổ của mình với họ vì cô ấy sợ rằng mình có thể xúc phạm và gây ra tai tiếng. Và vì vậy, trong thời điểm quan trọng của nỗi đau thể xác và nỗi thống khổ về tinh thần, Chị chỉ được hỗ trợ bởi sự sẵn lòng mang những cảm xúc đau khổ của Chị vào trong ánh sáng của đức tin. Điều đó đã làm nên tất cả sự khác biệt.
Không tạo ra kẻ thù. Têrêsa đã cố gắng hết sức với những cảm xúc khó chịu của mình, đưa chúng đến với Chúa để chữa lành. Trong hành trình này, Chị bắt đầu hiểu được ý nghĩa của việc bác ái và nuôi dưỡng tình yêu sâu sắc hơn đối với các chị em Dòng Cát Minh của mình. Tuy nhiên, ngay cả sau gần chín năm trong tu viện, Têrêsa phát hiện ra rằng Chị cũng có cảm giác thù địch với họ.
Cảm giác thù hận tự phát trào lên trong Chị khi một người chị vô tình làm đổ nước giặt bẩn vào người Chị; một nữ tu khác liên tục tạo ra những tiếng động khó chịu trong khi cầu nguyện. Những vấn đề nhỏ ở bên ngoài, nhưng cảm xúc lớn lại xảy ra bên trong Chị!
Têrêsa đã suy ngẫm về lời của Chúa Giêsu, “Hãy yêu kẻ thù của mình” (Mátthêu 5,44; Luca 6,27). “Không còn nghi ngờ gì nữa,” Chị hóm hỉnh nói, “chúng ta không có kẻ thù nào ở Cát Minh.” Sau đó, Chị ấy nói thêm với sự trung thực, “nhưng có những cảm xúc.” Chị nhìn thấy mối liên hệ giữa cảm xúc của mình và “kẻ thù”. Chị biết đây là cái nhãn mà Chị dán cho bất kỳ nữ tu nào khơi dậy cảm xúc tiêu cực mạnh mẽ trong Chị. Theo nghĩa này, Chị nhận ra rằng chính những kỳ vọng và cảm xúc của Chị mới là kẻ thù chứ không phải chính các chị em.
Đúng là, sự ghen tị và oán giận của Têrêsa đã khiến một số nữ tu coi Chị như kẻ thù của họ. Nhưng Chị không muốn khơi dậy cảm giác thù địch tự phát của mình, đánh mất tự do bên trong và biến họ thành kẻ thù của Chị.
Cảm giác thù địch đến mà không có sự thỏa hiệp của Têrêsa. Nhưng việc đưa mệnh lệnh của Chúa Giêsu vào thực hành ít nhất có nghĩa là không phải tu trì hay hành động theo chúng. Và vì vậy, Têrêsa cố gắng hết sức để không dễ dãi hay biện minh cho chúng.
Ví dụ, cô ấy mô tả một chị em là “làm tôi không hài lòng về mọi thứ, theo cách của cô ấy, lời nói của cô ấy, tính cách của cô ấy, mọi thứ dường như rất bất đồng với tôi.” Têrêsa chỉ mỉm cười với chị ấy khi có thể, nhưng đôi khi, tất cả những gì Chị có thể làm là bỏ đi: “Tôi thường chạy trốn như một kẻ đào ngũ bất cứ khi nào cuộc đấu tranh của tôi trở nên quá bạo lực.” Đó không phải là đỉnh cao của lòng bác ái, nhưng đó là điều chân thật và “bác ái” nhất mà Chị có thể làm. Chị chỉ đơn giản là yêu “kẻ thù” của mình và bản thân mình là điều tốt nhất có thể.
Yếu đuối nhưng sẵn lòng. Về cơ bản, cách Têrêsa hành động với cảm xúc của mình là đưa chúng đến với Chúa, Đấng có thể ban cho hoặc không thể ban cho Chị ân sủng để vượt qua lỗi lầm. Loại bỏ những lỗi lầm của Chị là việc của Thiên Chúa; sẵn lòng đầu phục Chúa là công việc của Chị.
Trong những trải nghiệm của mình từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành, Têrêsa đã có một khám phá quan trọng. Chị đã học được rằng cảm giác phiền muộn, đau khổ của mình — đặc biệt là cảm giác khắc nghiệt hoặc bạo lực đối với bản thân hoặc người khác — sẽ ngăn cản khả năng yêu thương của Chị. Bằng cách kiên nhẫn cầu nguyện, bằng cách thanh thản chịu đựng điểm yếu cảm xúc của mình, và bằng cách từ chối nuôi dưỡng bất kỳ cảm xúc nào như vậy, Chị giúp chúng ta nhìn thấy cách hiểu đương đại về tình yêu có thể trông như thế nào.
Theo cách riêng của mình, Têrêsa đã khám phá ra cùng một lẽ thật mà Thánh Phaolô đã bày tỏ: “Khi tôi yếu đuối, thì lúc tôi mạnh mẽ” (2 Cr 12,10). Bây giờ Chị thánh mời mỗi chúng ta trải nghiệm nó cho chính mình.
Chuyển ngữ: Giới trẻ thừa sai Chúa Cứu Thế Miền Nam
Nguồn: wau.org (Calming the Inner Storm, BY: JOSEPH F. SCHMIDT, FSC)
Nguồn: dcctvn.org