22/11/2024

“Khám phá lớn nhất của tâm lý học hiện đại là vô thức” (W. James)
“Vô thức là vấn đề cơ bản của triết học hiện đại” (C. Jung)

 

Nhập đề.

Đã có một thời các nhà tâm lý học chiều sâu, cố công tìm kiếm để nhận diện cho được cái khuynh hướng nền tảng, cái bản năng gốc, làm bá chủ trong đời sống con người. Freud (1856-1939) cho rằng mình đã gặp thấy, ông gọi nó là Libido, là khuynh hướng dục tính.

Theo ông tổ phân tâm học thì chính Libido chi phối hết mọi động trạng của con người, không những trong đời sống bình thường, mà cả trong những trường hợp bất bình thường hay tâm bệnh, cả trong nghệ thuật, văn hoá, văn chương, tôn giáo v.v.

Lập trường của Freud là lập trường quá khích, người ta dễ nhận thấy tính cực đoan của nó và bởi thế, thuyết Libido của Freud bị đả kích mãnh liệt từ nhiều phía: Tâm lý, Đạo đức, Tôn giáo, Y học v.v.

Không phải năm, bảy mươi năm sau mới có người lên tiếng, cũng không phải chỉ những nhà đạo đức bất bình với Freud, mà ngay cả trong hàng ngũ đệ tử của Freud cũng bất đồng với lý thuyết quá khích của thầy. Một trong những đại đệ tử trực tiếp, đời thứ nhất của Freud, đã đem ra một lý thuyết khác hẳn với lập trường của Freud. Đó là thuyết, xin tạm gọi là “chí hùng bá” của Alfred Adler (người Áo, 1870-1937).

PHẦN I: TRÌNH BÀY LÝ THUYẾT.

Về cái bộ máy tâm linh cụ thể gồm ba tầng, mà Freud đã cố công dựng lên và giải thích: Ngã, Siêu Ngã và Phi Ngã, cùng sự vận hành của bộ máy ấy ra sao, thì Adler không phủ nhận, ít là không đề cập đến. Nhưng về cái khuynh hướng cổ sơ và cơ bản của con người thì Adler không nhất trí và cho rằng không phải cái Libido làm bá chủ như Freud tưởng, mà chính là cái “chí hùng bá”, cái khuynh hướng vượt thắng, cái nhu cầu tự thể hiện, nhu cầu thống trị, cái mà triết gia Nietzsche gọi là “ý chí quyền lực, volonté de puissance”.

Đó là cái ý muốn phát triển bản ngã mình, hiển dương cái tôi, bành trướng quyền lực mình trên kẻ khác. Ý muốn đó không phải luôn luôn thể hiện được. Khi nó gặp những cản trở như những thua kém nơi tinh thần, những bất bình thường nơi thân thể thì đẻ ra mặc cảm tự ti, và tìm kiếm bù trừ. Để minh hoạ cho ý tưởng này, ta nhớ một câu người Việt thường nói: “nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ sún”.

Thực ra không có sự xếp hạng ở đây. Ở đây chỉ nói lên sự bất bình thường của cơ thể. Sự bất bình thường này có thể, và thường khi, làm nên những chuyện gì đó khác thường, phi thường. Dường như Tạo Hoá nhân hậu và công bằng, đã áp dụng cái luật bù trừ mà chính Ngài đã đặt để trong vạn vật: “Có tật thì có tài”, bớt cái này, Ngài thay cái khác.

Nhưng không phải khuynh hướng vượt thắng chỉ có mặt nơi hạng người bất bình thường về cơ thể. Cản trở là cái luật chung, nên mặc cảm tự ti và tìm kiếm bù trừ là hiện tượng phổ biến nơi mọi con người. Adler cho rằng đối với số đông, đi tìm khoái lạc, tìm tình ái, tìm những xúc cảm nọ kia, thường chỉ là tìm sự đền bù cho những thua thiệt tự nhiên, tìm sự thoả mãn gián tiếp cho những tham vọng không thực hiện được.

Vẫn theo Adler, thì nói chung, những tiện nghi như xe cộ, nhà cửa, đồ dùng, áo quần, máy móc… những du hí, xa hoa, những láng coóng sang trọng được người ta tìm kiếm ở đời, không hẳn vì khoái lạc chúng đem lại, mà thực chất chúng là những dấu hiệu tỏ ra mình hơn người, những cách thức để tự thể hiện giá trị với đời mà thôi.

Tóm lại, tất cả những gì mà Freud đã giải thích bằng sự dồn nén thì Adler giải thích bằng mặc cảm tự ti và bằng sự bù trừ; cái Libido của Freud đã bị Adler thay thế bằng cái chí hùng bá, cái ý chí quyền lực, cái khuynh hướng vượt thắng. Theo Adler, đó là khuynh hướng nền tảng, bá chủ, chi phối mọi động trạng nơi con người, bất luận ở thời kỳ nào của cuộc sống, bất luận trong lãnh vực sinh hoạt nào của con người.

PHẦN II: ĐỐI CHIẾU HIỆN TƯỢNG.

Chúng ta có quá nhiều sự kiện, nơi trẻ em, nơi người cao tuổi, ngoài xã hội, trong lịch sử, văn chương, cả trong đời sống tu trì, tôn giáo… để đối chiếu, để minh hoạ cho lý thuyết của Alfred Adler.

  1. Nơi trẻ em.

Thông thường người ta quan niệm tuổi thơ là tuổi đơn sơ, vô tội; các cháu không hề quan tâm đến việc thắng bại, hơn thua. Thực tế chứng minh ngược lại. Ở trẻ em, khuynh hướng vượt thắng, nhu cầu tự thể hiện, đã xuất hiện và phát triển rất sớm. Để bảo trẻ nhỏ làm một việc gì theo ý người lớn, người ta có hai cách: hoặc là khen, hoặc là chê. Khen nó, vuốt ve tự ái của nó, nó sẽ làm. Hoặc khích nó, chê nó không làm được, nó cũng sẽ làm. Khuynh hướng vượt thắng rõ ràng đã biểu lộ rất sớm nơi trẻ nhỏ.

Theo Adler, cái ý chí quyền lực xuất hiện rất sớm, ngay ở buổi thiếu thời, song nó bị cản trở. Chính địa vị thấp bé, thua sút của đứa nhỏ trong xã hội người lớn, làm phát sinh nơi chúng mặc cảm tự ti. Trẻ thơ do đó, phản ứng lại bằng những huyền thoại, tưởng tượng, bằng cách rút lui vào những trò chơi giả tưởng: làm tướng, làm vua, làm công chúa, làm hoàng tử vv. hầu kiếm lấy một thoả mãn tưởng tượng cho lòng tự ái bị thương tổn.

Chúng ta cũng thấy: để kích thích sự học tập của tuổi trẻ, nhà trường nào cũng phải sử dụng đến phương pháp dùng điểm số, xếp thứ vị, chế độ khen thưởng, học sinh giỏi, học sinh tiên tiến, học sinh xuất sắc; trường giỏi, trường chuyên, trường điểm v.v. Sự kiện này chứng tỏ rằng khuynh hướng vượt thắng đã manh nha nơi trẻ em và ảnh hưởng rất nhiều đến các sinh hoạt của tuổi trẻ.

  1. Nơi người cao tuổi.

“Tuổi trẻ nhìn về tương lai, tuổi già sống với quá khứ”. Câu nói đó đúng gần như một định luật. Người trẻ nào mà không nghĩ đến tương lai, không đặt cho mình một tương lai? Làm linh mục, làm soeur, làm bác sĩ, kỹ sư, làm thầy giáo, thương gia, một căn nhà, một mảnh bằng v.v… Còn người già? Quả thật, người già nào cũng thích nói chuyện quá khứ, hoặc quá khứ của đời mình, hoặc của thời mình.

Cái quá khứ ấy xét về mặt nào cũng đầy ắp kỷ niệm, luôn đẹp, luôn hay, luôn có giá trị, luôn đáng trân trọng đối với chủ thể mang quá khứ ấy. Cái khổ cái sướng, cái vui cái buồn, cái lao đao khó nhọc, cái dũng cảm anh hùng… bất cứ cái gì “đời tao trước kia (vui, buồn, sướng, khổ, khó nhọc, long đong, can đảm v.v.) hơn nhiều”! Cho thấy thật rõ: cái khuynh hướng vượt thắng, muốn hơn người, không bao giờ già đi cả, không bao giờ tàn lụi trong con người, dẫu khi thể chất con người đã già đi, đã tàn lụi!

  1. Trong xã hội.

Lá cờ đầu, lẵng hoa, huy chương, huân chương, bằng khen, rồi tiên tiến, tiến bộ, cá nhân xuất sắc, anh hùng lao động, các mẹ anh hùng, cháu ngoan, rường cột, làm chủ tập thể, dân tộc anh hùng, màu cờ sắc áo v.v. những vật dụng ấy, những từ ngữ ấy, xuất hiện trong xã hội để làm gì, nếu không phải là để khơi dậy cái chí hùng bá nơi mỗi cá nhân, nơi một tập thể, nơi một dân tộc?

Nếu được kích động đúng mức thì một cá nhân, có thể là một anh thợ máy chuyên cần, có thể là một cô thôn nữ chất phác, có thể là một cô cậu bụi đời,… bỗng một hôm nào đó trở thành một nhân vật lịch sử, với những đức tính quả cảm phi thường, trở thành những con người của huyền thoại.

Có biết bao dân tộc, thậm chí chỉ là những bộ lạc rất nhỏ, đã chiến đấu trường kỳ, đầy gian khổ, để xác lập sự hiện hữu của mình, muốn có tên mình trên bản đồ thế giới.

  1. Trong Lịch sử.

Đọc lịch sử Trung quốc trong các tác phẩm cổ điển, như Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí, Thủy Hử chẳng hạn, ta thấy đầy dẫy những mẫu hình tiêu biểu cho cái chí hùng bá, nơi các nhân vật trong truyện. Chỉ xin kể mẫu chuyện Gia Cát Lượng khai thác cái chí hùng bá thế nào nơi một vị tướng đã cao tuổi. Sách kể rằng có một lần Khổng Minh cùng với quân sĩ bị vao vây rất ngặt, thậm chí đến con chim cũng không bay lọt được ra ngoài.

Ông họp tướng sĩ lại và nói “Tình thế rất nguy ngập. Cần có một vị tướng tài giỏi và can đảm phi thường, mới phá được vòng vây. Tiếc thay Vân Trường và Trương Phi không có mặt …”! Khổng Minh than thở và bỏ lửng câu nói ở đó! Bỗng một vị tướng già đứng dậy, mặt đỏ gay, râu tóc dựng ngược, giọng nói uất ức như bị tắc nghẽn: “Nếu quân sư không chê tôi là người bất tài, xin quân sư cho tôi được cầm quân phá giặc!” Khổng Minh đáp: “Xin lão tướng gắng công giúp cho!” Hoàng Trung mặt hầm hầm, thét quân ra trận. Khổng Minh quay vào, tay khẽ quạt, miệng mỉm cười, bảo quân sĩ chuẩn bị ăn mừng chiến thắng. Khổng Minh đang dụng kế “khích tướng”!

Lịch sử phương Tây cũng để lại không biết bao nhiêu trường hợp có thể hỗ trợ, biện minh cho lý thuyết của Adler. Ai cũng biết Démosthène (-385-322 AC) là nhà hùng biện trứ danh Hy lạp thời cổ. Ngược đời thay, ông trở thành nhà hùng biện vì ông … rụt lưỡi, nói cà lăm. Có ai tin được như thế không? Vậy mà chính vì mặc cảm tự ti, nói năng thiên hạ không hiểu, mà Démosthène đã sáng chiều ra bờ biển, bỏ đá cuội vào mồm để tập nói cho rõ, thuyết giảng giữa tiếng sóng vỗ gió gào, để át cho được tiếng ồn ào của quần chúng. Và cuối cùng con người mang khuyết tật nơi cơ quan phát âm thanh quản đó, đã trở thành nhà đại hùng biện của mọi thời!

Chính Alfred Adler cũng là một minh chứng sống động nữa cho lý thuyết của ông. Xuất thân từ một gia đình tiểu thương ở ngoại ô thành Vienne, thể trạng gầy gò, thấp bé, nhưng như để bù lại, đã tỏ ra rất năng động, nuôi mộng trở thành bác sĩ y khoa. Một lần đi học về, kém quá về môn toán, cha giận toan cho đi học đánh giày, lập tức ông thủ chí vươn lên, và cuối năm đứng đầu cả lớp. Học xong y khoa, ông chuyên về nội thương, rồi tâm bệnh. Theo Freud, rồi bỏ Freud, để lập ra thuyết mới, có nhiều điểm đối lập với thuyết của thầy.

Đứng trên lập trường của Adler, theo quan điểm của ông, ta có thể nhìn ra và giải thích rất nhiều sự kiện lịch sử khác: Napoléon, muốn làm hoàng đế của châu Âu đã tuyên chiến với cả châu Âu; Hirohito với thuyết Đại Đông Á của mình và Hitler, chắc chắn ông này đã chịu ảnh hưởng thuyết siêu nhân của Nietzsche, đã có tham vọng thiết lập một dân tộc siêu đẳng, gồm tất cả những siêu nhân, đi khai hoá và thống trị thiên hạ. Xin nhớ là Hitler và đặc biệt Napoléon là những con người chưa đạt được chiều cao trung bình của dân tộc họ. (Quý vị có liên tưởng tới ai đó trong cuộc đời, có thể dẫn ra làm chứng cho cái thuyết của Adler được không? Tôi nghĩ là nhiều lắm.)

  1. Trong Văn chương.

Trong văn chương, trước tiên là văn chương bình dân, cái danh dự, cái thể diện, cái địa vị rất được coi trọng, coi trọng hơn cái vật chất, hơn của cải: “Tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Tôi đã nghe chuyện có một cụ già thuộc bậc trưởng thượng, không được mời lên mâm trên, đã vùng vằng tức giận đi thẳng về nhà không dự tiệc nữa. Tôi cũng nghe có một cha, trưởng ban hay trưởng tuyến gì đó, trong một buổi văn nghệ, không được nêu tên, không được giới thiệu, đã bực bội cầm xắc đứng dậy: “Xin lỗi, tôi có việc gấp cần phải về”. Thực sự không có chuyện gì gấp cả mà chỉ là vì bị chạm tự ái, không được nêu tên, không được giới thiệu. Đúng là: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”.

Những người thua sút về sắc đẹp, về thể chất vẫn kiếm ra được những lý lẽ để vuốt ve tự ái:

“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.

Hoặc:

“Người đẹp duyên lặn vào trong,

Bao nhiêu người xấu duyên bong ra ngoài”.

Phải chăng đó chính là cái bù trừ tinh thần mà người xưa ở Phương Tây cũng đã từng nói đến:

“Nigra sum sed formosa:

Em đen nhưng em đẹp”.

Nhắc tới chí hùng bá, khuynh hướng vươn lên, nhu cầu tự thể hiện trong văn chương, chúng ta không thể không kể đến danh nhân Nguyễn Công Trứ, người mà trong buổi hàn vi đã bực dọc than thở: “Có lẽ ta đâu mãi thế này”!

Than thở không đồng nghĩa với buông trôi, phó mặc, mà than thở để thủ chí vươn lên:

“Nhân sinh nhất nam tử.

Yếu vi thiên hạ kỳ.

Trót sinh ra thì phải có chi chi

Chẳng lẽ tiêu hao ba vạn sáu?!”

Xét cho cùng thì “yếu vi thiên hạ kỳ”, làm chuyện khác người, là mẫu số chung trong tính tình của mọi con người, bất chấp yếu tố thời gian và không gian, bất chấp giới tính, trình độ.

Dân gian vẫn thường nói:

“Ở đời muôn sự của chung.

 Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”.

Nhân đọc mấy chữ của Nguyễn Công Trứ “yếu vi thiên hạ kỳ”, làm chuyện khác người, xin được mở một ngoặc đơn nho nhỏ, cho vui, về một vài cử điệu trong thánh lễ đồng tế: Việc giang tay khi đọc kinh lạy Cha: có vị giang tay rộng hết mức, có vị giơ cao hẳn quá đầu, có vị chỉ đặt trước ngực … Việc ôm hôn bình an (accolade) trong ngày truyền chức: ôm chầm lấy nhau, vít cổ xuống, đập thùm thụp vào lưng, cười nói như ở ngoài sân chứ không phải là đang trên cung thánh… Lại có cha thích thay đổi, thêm bớt một vài chữ trong bản dịch Nghi Thức Thánh Lễ đã được ban hành… Chung qui cũng tại cái “yếu vi thiên hạ kỳ” cả. Các cụ ngày xưa bảo: “Thủ thường hơn trác lạc”. Người bình dân nói: “Xấu đều hơn tốt lõi”.

  1. Trong Kinh Thánh.

Theo cách nhìn của Adler, có một vùng đất rất hấp dẫn, rất thú vị để bước vào, đó là những câu chuyện trong Thánh Kinh. Có rất nhiều chuyện nhưng ta chỉ nêu hai giai thoại làm ví dụ, một trong Cựu ước, một trong Tân ước.

Trong Cựu ước ai cũng biết chuyện Đavid giao đấu tay đôi với Goliath. Thoạt trông thấy nhau, hai đối thủ đã không tiếc lời hạ nhục, mạt sát nhau. Người đọc có cảm tưởng na ná như đang đọc các nhân vật của Homère, hay trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung, hoặc hình ảnh và bình dân, thôn dã hơn một tí, như đang xem hai con gà chọi xoè cánh, nghiêng mình, gáy liên tục sáp vào nhau.

Sách Samuel đoạn 17 kể lại rằng: Thấy Đavid cầm gậy và ná xông tới, Goliat khinh dể thét lớn: “Tao là chó hay sao mà mày cầm gậy đến với tao?… Đến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú” (1Sm 17, 43-44). Đavid đáp lại Goliat: “Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh, …. Ngay hôm nay, … tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay, tao sẽ đem xác chết của quân đội Philitinh làm mồi cho chim trời và dã thú…” (1Sm 17, 45-46).

Kết quả cuộc chiến tay đôi là Đavid đã chiến thắng vẻ vang, toàn dân khải hoàn, xuống đường ca múa. Các phụ nữ, thiếu nữ Israel nhảy múa reo hò: “Saul giết một ngàn, Đavid giết một vạn” (1Sm 18,6-9). Trời đất! Câu hát chết người, suýt chết người! Saul bị động nọc. Câu ca đó đã coi thường nhà vua, tôn vinh người chiến sĩ dưới trướng. Ý chí quyền lực bị thương tổn, Saul quyết giết Đavid, chàng trai trẻ mà nhà vua đã hết lòng thương mến, đã đối xử như con.

Trong Tân ước, chỉ xin lấy một chuyện: Chuyện bà Zêbêđê xin cho hai con được ngồi bên hữu bên tả Chúa. (Mt 20, 20-23. Theo Mc thì chính hai ông Giacôbê và Gioan xin thẳng Chúa, chứ không phải nhờ mẹ như trong Mt. (x. Mc 10, 32-45). Hai ông này sẵn sàng chấp nhận mọi thứ, mọi điều kiện, dầu phải uống chén đắng, dầu phải “chịu phép rửa như Thầy sắp chịu”, miễn sao được địa vị cao, ngồi bên tả bên hữu. (Mt 20, 20-22). Lời xin này đã làm cho mười người bạn nghĩa thiết bực dọc (Mt 20,24; Mc 10,41).

Cũng xin lưu ý là lời thỉnh cầu được đưa ra trong giờ phút hết sức bi đát, khi Chúa vừa báo tin, Người sắp lên Giêrusalem để chịu tử hình. (Mt 20, 18-19; Mc 10, 33-34). Vậy thì động lực nào đã làm cho hai người này, không quan tâm tới cái chết cận kề của sư phụ, bỏ quên tình cảm thân thiết như ruột thịt, của mười huynh đệ kia? Hỏi thêm nữa: động lực nào đã làm cho mười người anh em kia ấm ức, tức tối đối với hai người bạn đã ba năm nối khố? Chỉ có thể là nó, là cái khuynh hướng vượt thắng, cái ý chí quyền lực, cái tham vọng hơn người mà Adler đã chủ trương đó vậy!

  1. Trong đời tu, trong tôn giáo.

Rồi nếu quay cái nhìn phân tâm học trường phái Adler vào lãnh vực đời tu, tôn giáo, ta sẽ thấy có rất nhiều hiện tượng, thật đáng nghi ngờ. Đây là lãnh vực chúng tôi để tâm quan sát nhiều hơn nên đã thấy được nhiều chi tiết tỉ mỉ, thú vị.

Trước tiên là một tiểu tiết vui vui về từ ngữ được dùng, để kích thích những ai đi tu, nam giới. Một cậu bé được vào Trường Thử, Probatorium, hay Tiểu chủng viện thì được gọi là Chú; lên các lớp cao hơn thì gọi là Thầy; các chủng sinh đi thử, đi thực tập thì gọi là Thầy Giảng; vào Đại chủng viện gọi là Thầy Đại Chủng Sinh, Thầy Già (Gp Vinh); lên các lớp trên ở Đại Chủng Viện thì gọi là Cụ (Cụ Bốn, Cụ Năm, Cụ Sáu); chịu chức Linh mục rồi thì không gọi là Thầy nữa mà gọi là Thầy Cả, là Cha; trên Thầy Cả là Đức Thầy; trên Cha là Đức Cha hay Cha Cả; trên hết là Đức Thánh Cha! Trong ý hướng đề cao, tôn vinh một người, động viên một ai đó, ngôn ngữ Việt nam tỏ ra thật phong phú, khó có ngôn ngữ nào sánh kịp!

Ai cũng biết cách đây 40 hay 50 năm, có những phong trào phản kháng đã nổi lên đây đó trong Giáo hội, kéo theo hậu quả tất nhiên, là khủng hoảng phục tùng: trên không nghe dưới, dưới không nghe trên (đất không nghe trời, trời không nghe đất). Chẳng còn thấy được đâu là chuẩn mực cho nhân đức hoặc đối thoại nữa. Bề trên thì bảo rằng quyền bính đến từ chức vụ và do đó, đến từ Thiên Chúa. Những người phản kháng, ngược lại, cho rằng họ đang thi hành sứ mạng tiên tri, những người đi trước thời cuộc. Nếu chẳng đặng đừng, những người này có bị áp dụng kỷ luật thì họ lại hân hoan tuyên bố “số phận của mọi ngôn sứ đều bạc bẽo như thế cả”! Rõ ràng là ai cũng muốn khèo Thiên Chúa về phía mình, làm đồng minh cho mình.

Nét chung nhất trong các phong trào phản kháng là điểm này: giáo dân thì phê phán, chê bai linh mục; linh mục thì phê phán giám mục, thậm chí cả Giáo hoàng. Giáo dân muốn bắt linh mục làm theo ý họ, linh mục đòi Giám mục làm theo ý mình. Tu sĩ đòi bề trên làm theo ý bề dưới. Tựu trung, mọi người đều muốn, làm một người khác to hơn mình! Khi không đạt được con người khác lớn hơn mình đó, họ trưng dẫn cả hàng trăm lý do bù trừ cho con người nhỏ bé của họ: Bề trên không thấy được khả năng, đánh giá sai; bề trên thành kiến, cục bộ, phân biệt đối xử, trù dập người tài, không muốn một ai nổi nang trổi vượt; bề trên ưa khen, thích nịnh, chỉ dùng những ai khéo ton hót, giỏi nịnh nọt.

Chúng ta đang nói về tâm trạng của những người bất mãn gần như chung thân, tự đánh giá mình cao hơn địa vị mình đang đứng, tự cảm thấy mình không được trọng dụng, sinh ra u uất hoặc nổi loạn. Xin nhớ rằng người bất mãn đó có thể là một linh mục, suy nghĩ về giám mục của mình, mà cũng có thể là một giáo dân suy nghĩ về cha xứ, hay một tu sĩ suy nghĩ về bề trên của họ.

Thí dụ, có những người không được thượng cấp tin dùng, chỉ vì tính tình quá bộc trực. “Trung ngôn nghịch nhĩ”. Lời nói thẳng là lời nói khác với ý ta, đụng tới bản ngã của ta, khiêu khích bản lĩnh của ta, tất yếu nó sẽ bị dội lại, bị đẩy ra. Hai ý chí chạm nhau, do cùng một động lực quyền lực thúc đẩy, quyền lực nào mạnh hơn sẽ thắng; ý chí kia sẽ rút lui về với chính mình, tìm bù trừ trong những biện minh, bất cứ lúc nào có cơ hội.

Ngược lại, những lời nói thuận với tai ta, hợp với ý ta, thì ta thích nghe, thích nhận. Biết người khác nịnh mà mình cứ thích. Lịch sử kim cổ cũng như thực tế đời thường cho thấy: đâu cũng có những nịnh thần, thời nào cũng có những thái giám, dù rằng không ai thích bị đánh giá là dùng nịnh thần, dùng thái giám. 

Chúng ta trở lại với đời sống người tu hành, theo cái nhìn của Adler với hai khái niệm chính yếu: mặc cảm tự tiước muốn bù trừ. Học hành không bằng người thì nói mình giỏi hoạt động; hoạt động kém thì bảo cần nắm vững giáo lý; kém giáo lý thì cho là cần đời sống thiêng liêng v.v. Trong bất cứ tình huống nào, người ta cũng kiếm ra được một hai lý do, để biện minh cho tình trạng thua kém của mình.

Cũng có khi người ta dựa trên cái khuynh hướng vượt thắng đó, có sẵn nơi bản tính con người, mà thôi thúc kẻ khác làm việc tốt, lo điều thiện. Phương pháp này, có thể gọi là “khích tướng” trong tam thập lục kế của người Trung Hoa, tỏ ra không phải là không hiệu nghiệm. Ngoài xã hội có nhiều cuộc thi đua, việc gì cũng thi đua được: thi đua yêu nước, thi đua học tập, thi đua nộp thuế v.v… mục đích là để người dân đem hết tài năng, khả năng mình có ra mà thi thố, cống hiến cho xã hội.

Nhớ lại trong Giáo hội, thánh Augustinô cũng đã có lần nói câu này: “Việc ông nọ bà kia làm được sao tôi không làm được, quod isti istae cur non ego?” Có lẽ không ai phủ nhận khía cạnh “khích tướng” này trong lãnh vực giáo dục, hoặc dùng người.

Có một hiện tượng khá ngược đời, chúng ta cũng nên nhìn cho kỹ để thấy rõ chân tướng của nó. Chúng ta chứng kiến hay nghe nói có một số linh mục, hoặc tu sĩ, hoặc nữ tu, nâng niu một đôi dép cũ, đội một chiếc mũ đã lâu đời, mặc chiếc áo vá vai, chiếc quần bạc màu ra trước công chúng… Phải nói đó là cách sống không bình thường. Nhưng để làm gì vậy? Để đồ dùng và quần áo cũ kỹ đó, thông báo cho thiên hạ biết, chủ nó là người sống đơn sơ, khó nghèo, khiêm nhượng, không quan tâm tới cái vật chất, phần xác!

Đúng ra họ rất quan tâm tới phần xác: những linh mục, tu sĩ này quan tâm tới chiếc áo bạc màu, tới mái tóc bờm xờm, tới đôi dép mòn gót cũng như những linh mục, tu sĩ kia quan tâm tới “mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao” tới mái tóc mượt mà, tới nếp ủi của quần áo…, không bao giờ đi qua gương kính mà không nhìn vào. Cả hai đều muốn “yếu vi thiên hạ kỳ” hết, đều muốn vượt trội hơn người khác, về một khía cạnh nào đó. Nghịch lý mà nói thì những linh mục, tu sĩ lôi thôi đó đang … kiêu ngạo trong khiêm nhường, hay đúng hơn, trong cung cách, trong bộ áo, trong cái vỏ khiêm nhường.

Suy nghĩ thêm chúng ta có thể khẳng định rằng: khiêm nhường là một nhân đức rất lạ: người ta sẽ mất nó, ngay khi người ta nghĩ mình có nó! Người ta sẽ hết khiêm nhường ngay khi người ta nghĩ rằng mình khiêm nhường! Tại sao? Bởi vì khiêm nhường là một nhân đức. Nhân đức là điều tốt lành. Tự đánh giá mình tốt lành, nhân đức, là người không còn khiêm nhường nữa. Nói theo phân tâm học, hay tâm lý học chiều sâu, thì “khiêm nhường chỉ là một hình thái kiêu ngạo, nhưng làm cho người khác ít khó chịu hơn mà thôi”. Chúng tôi không biết có nhà đạo đức nào phản đối câu nói này không?

Có một vài chuyện, thuộc loại internos, không biết có nên nói ra hay không, chuyện cha chính cha phó, chuyện thuyên chuyển linh mục, hay là chuyện cha cũ cha mới. Tôi do dự khá lâu để rồi sau cùng quyết định viết nốt ra đây. Bởi đây cũng là một thể hiện rõ nét của cái gọi là chí hùng bá mà chúng ta đang đề cập, đang đem thực tế ra để đối chiếu.

Trước hết là chuyện cha chính cha phó. Đó đây người ta thấy có cha phó, muốn tỏ uy quyền với giáo dân, đã hành xử bốc đồng, vượt quyền cha chính, âm thầm hay công khai chê bai cha chính. Ngược lại cũng có cha chính, sống quyền bính với cha phó, không cho cha phó làm một việc gì, thậm chí có khi làm mất thể diện cha phó trước giáo dân, trước đoàn thể. Nếu cha phó cộc cằn thì đỏ mặt, cự lại, gây gương xấu. Nếu ngài hiền lành thì nhẫn nhịn, nín thinh, nhưng để bụng. Hậu quả thế nào? Nhà xứ hai người ở mà lặng lẽ im lìm, không tiếng cười, không trò chuyện. Ngột ngạt, nặng nề kể cả bữa ăn. Tương quan chính phó đáng lẽ là tương quan huynh – đệ, thì lại trở thành tương quan mẹ chồng – nàng dâu. Còn đâu nữa ý nghĩa cảm động của câu Thánh vịnh mà các cha đã hát ngày trước trong Chủng viện: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau.” (Tv 133, 1).

Chuyện internos thứ hai là chuyện cha cũ cha mới. Một cha xứ mới tới, thường là rất năng nổ, rất nhiệt tình. Ngài lo về cơ sở, về vật chất, về tinh thần, về đoàn hội… làm rất nhiều việc. Có một câu nói đầy kinh nghiệm của dân gian, mà nếu trích dẫn ra đây thì tôi nghĩ là vô phép với các cha, nên xin vui lòng bỏ trong ngoặc đơn. Phân tâm học lắm khi cũng phải dùng những từ ngữ sỗ sàng, trần trụi. Xin lỗi, câu nói trong ngoặc đơn đó là “Lăng xăng như thằng mới đến”. (Tôi xin lỗi rồi nên chắc chắn không ai bực mình về câu nói).

Ngài làm để tạo uy tín, để thu phục lòng dân. Thực tế cũng đã thấy rất nhiều nơi: cha xứ mới tới chỉnh trang cung thánh, xây dựng tượng đài, sửa sang đường sá, đào cây sống trồng cây chết, thay đổi giờ giấc, kinh kệ, … thậm chí có cha đã ngấm ngầm chạy vật liệu cả trước khi về nhận xứ. Khách quan mà nhìn thì nhà thờ, nhà xứ chưa cần thiết phải xây dựng lại, cung thánh như trước cũng được rồi, kinh kệ có gì sai quấy đâu mà phải thay đổi gấp gáp như vậy? Thế mà cha xứ mới vẫn cứ thay đổi. Không nhất thiết phủ nhận ý tốt có thể có nơi cha xứ mới, nhưng cũng có thể đặt câu hỏi: Phải chăng có một động lực nào đó, đang ngấm ngầm thúc đẩy ngài hành động như vậy?

Đối với cha xứ cũ thì sao? Khi nghe tin những công trình xưa kia của mình, đã bị cha mới đập phá, thay đổi, tự nhiên ngài cảm thấy xót xa. Một vài người ở xứ cũ có cảm tình với cha thì hay đưa chuyện. Đưa chuyện thì nói một chiều, cho hợp với ý cha: chê cha mới chuyện này chuyện khác. Cha xứ cũ phụ hoạ từ xa, khiến cha mới đôi khi cũng khó làm việc.

Đã có khá nhiều trường hợp cha đã nhận xứ mới rồi, mà lòng vẫn mang một tâm trạng u hoài nghĩ về xứ cũ. Vinh quang ngày xưa không còn. Tự ái bị thương tổn. Có cái gì đó làm cho ngài tức tức trong ngực. Bác ái huynh đệ không thắng được lòng ghen tức. Cha cũ, cha mới mỗi lần gặp nhau, vẫn có cái gì đó ngượng ngập, không tự nhiên, bằng mặt mà không bằng lòng. Chẳng qua cũng tại cái khuynh hướng gốc trong lòng, cái chí hùng bá, cái khát vọng muốn vượt trội, muốn hơn người đang nổi lên ở cả hai phía.

Cũng có những giáo sĩ, tu sĩ hoặc giáo dân, bình thường thì cáo bệnh, trùm chăn, nhưng khi trao cho một việc gì đó có chức, có phận, có danh giá, thì lại trở nên năng nổ, nhiệt tình, hăng hái, có mặt khắp nơi, tích cực trong hết mọi việc. Thế đó, cái tôi muốn được xác lập, muốn được khẳng định.

Có một điểm đáng lưu ý trong đời sống tu trì: đó là một số linh mục, tu sĩ trẻ, có lẽ không nhiều, coi thường các bậc đàn anh, đàn chị quá đáng. Tôi đã nghe một số cha trẻ, mới được thụ phong, gọi thái độ bất kính đàn anh đó bằng hai chữ “cào bằng”. Các bậc lớn tuổi, có chút mặc cảm, chuyện thời sự không biết nhiều, nên yên lặng, bỏ qua. Lớp linh mục, tu sĩ đàn em, – ngoài sự năng nổ và nhiệt tình rất đáng ca ngợi của tuổi trẻ, – thì thực chất vốn liếng thần học, đời sống đạo đức, có lẽ không có gì nhiều để mà coi thường đàn chị, đàn anh.

Ngược lại, theo như Đức Cha Già Giuse Trịnh Chính Trực nhận xét: nhìn vào đời sống thiêng liêng truyền thống: đời sống bí tích, đời sống cầu nguyện, lòng sùng kính Thánh Thể, sùng kính Đức Mẹ, tôn kính Bề trên, thái độ giữ gìn đức trinh khiết v.v… quả thực có một khoảng cách khá xa mà các linh mục, tu sĩ trẻ khó lòng theo kịp các linh mục, tu sĩ lớp trước.

Theo chúng tôi nghĩ: những việc đạo đức truyền thống vừa kể, có thể xem là hành lang an toàn rất vững chắc của ơn gọi sống đời thánh hiến. Tất nhiên, thời mới mẫu mã mới, vật liệu xây dựng mới, nhưng hành lang an toàn thì thời nào cũng cần. Dường như lớp trẻ, giáo sĩ cũng như nam nữ tu sĩ, không quan tâm gì nhiều tới hành lang an toàn này, không xác tín để trồng lên hai bên đường mà đi. Đáng tiếc!

Kết luận.

Vì đã quá dài rồi tôi không viết phần Phê Bình hay Nhận Định lý thuyết của Adler nữa. Tôi đã cố ý viết dài phần trưng dẫn hiện tượng, là vì chủ tâm muốn đối chứng với phần lý thuyết, một lý thuyết có thể hữu ích cho đời sống tu đức của những ai muốn lợi dụng nó để biết rõ bản thân mình cũng như để hiểu thêm tâm lý sâu thẳm của người khác.

Cách giải thích sâu sắc, tinh tế và bao quát của Adler tôi đã cố gắng vận dụng, sử dụng, khi xen vào các sự kiện một vài suy nghĩ có tính hiện sinh, nhưng không quên đi tính tu đức mà sự kiện mang tới. Tôi muốn kết hợp cái nhìn phân tâm, tự nhiên, với cái nhìn nội tâm, siêu nhiên, làm sao để những khám phá của khoa phân tâm không gây xáo trộn, không gây hoang mang, nhưng hữu ích cho cuộc sống của người linh mục, người tu sĩ.  

Với ý hướng minh thị như vậy, chúng ta có thể đi tới hai hệ luận tu đức thực hành sau đây: hệ luận thứ nhất đối với người khác, hệ luận thứ hai dành cho chính mình.

  1. 1. Hệ luận thứ nhất. Thể diện là cái ai cũng có, ai cũng đòi được có, nó nằm trong bản tính con người: người lãnh đạo cũng như người được lãnh đạo, ngoài đời thường cũng như trong thánh đường, trong tu viện. Xúc phạm thể diện người khác là xúc phạm tới chính con người.
  2. 2. Hệ luận thứ hai. Nếu cái chí hùng bá là bản năng gốc, giật dây và chi phối mọi hành vi, mọi động trạng của con người như Alfred Adler chủ trương và như cuộc đời minh chứng, thì đòi hỏi của Tin Mừng “sống khiêm tốn, vâng phục”, phải chăng là điều bất khả, là một sứ mệnh vô phương? Chúng ta có câu trả lời mạc khải của Chúa Giêsu: “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được” (Mt 20, 26).

“Có thể được”, nhưng đòi hỏi phải thanh luyện trong đau đớn, khổ sở. “Bởi vì như Đức Kitô, dầu là Con Thiên Chúa, cũng đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục”. (Dt 5, 8-10).

Lm. Aug. Hoàng Đức Toàn, Gp. Ban Mê Thuột

Nguồn: Truyền Thông HĐGMVN