27/04/2024

Suy niệm loan báo Tin Mừng: 04/10/2019 – Thứ Sáu Tuần 26 TN – lễ nhớ thánh Phanxicô Assisi

(Trích 31 bài giảng của uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)

 

Lời Chúa:

Sách Br 1:15-22

Đức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, quả là Đấng công minh; còn chúng tôi, những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như các bậc cha ông, chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng, vì tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa, đã bất tuân, không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không vâng theo các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra trước mắt chúng tôi. Từ ngày Đức Chúa đưa cha ông chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập cho tới ngày nay, chúng tôi vẫn bất tuân đối với Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, vẫn làm ngơ không chịu nghe tiếng Người. Cho nên, như sự việc xảy ra hôm nay đây, những bất hạnh và lời nguyền rủa vẫn đeo đuổi chúng tôi, đúng như Đức Chúa đã tuyên bố với ông Mô-sê tôi tớ Người, ngày Người đưa cha ông chúng tôi ra khỏi Ai-cập để ban cho chúng tôi miền đất tràn trề sữa và mật. Chúng tôi đã không vâng nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục dịch các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi.

Tin Mừng Lc 10, 13-16

“Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din ! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi. Vì thế, trong cuộc Phán Xét, Tia và Xi-đôn sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi. Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư ? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ ! “Ai nghe anh em là nghe Thầy ; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy ; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” “Hãy mừng vì tên anh em được ghi trên trời”

 

Suy niệm

Để hiểu sâu hơn về sứ mạng mà mọi Kitô hữu được kêu gọi thực hiện, sẽ hữu ích nếu bắt đầu từ những lời của Đức Giêsu trong Lc 10:13-16, rồi quay sang lời cầu nguyện của Br 1:15-22, nhờ đó làm sáng tỏ về lịch sử Ítraen của Thiên Chúa, là dân được hợp thành bởi những người gốc Ítraen lịch sử, và những người được kết hợp với Ítraen của Thiên Chúa nhờ đức tin vào Chúa Kitô và phép rửa.

Bài diễn từ Đức Giêsu dùng để sai các môn đệ đi truyền giáo được tiếp nối bằng một lời cảnh cáo nghiêm khắc dành cho hai làng Khoradim và Caphácnaum ở miền Galilê (x. Lc 10:13-15). Hai làng thuộc đất Palestin này đã từng chứng kiến những phép lạ Đức Giêsu đã làm khi rao giảng về Nước Thiên Chúa (x. Mt 11:21). Tại Caphácnaum, Đức Giêsu đã có những bước đầu tiên loan báo sứ điệp của Người (x. Lc 4:23) và đã cho thấy quyền năng của Nước Thiên Chúa (x. Lc 4:31-41), và chính tại nơi ấy Người đã đón nhận đức tin của viên đại đội trưởng người Rôma (x. Lc 7:1-10). Ông Philípphê, một trong số 12 tông đồ, là người xuất thân từ Bétsaiđa (x. Ga 1:44; 12:21). Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Giêsu đối với hai làng Palestin nơi Người đã làm các phép lạ nhưng đã gặp phải sự thiếu lòng tin của dân làng, không phải là một lời kết án chung cuộc, không thể đảo ngược. Vào cuối bài diễn từ sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giêsu tái khẳng định tầm quan trọng của sứ mạng phúc âm hóa: phúc âm hóa và được phúc âm hóa bao gồm những trách nhiệm không thể tránh được trước sự phán xét của Thiên Chúa, một sự phán xét không phải là một án phạt dứt điểm không thể kháng án, nhưng vạch ra điểm tham chiếu cuối cùng vào thời sau hết (x. Lc 10:14-15). Cho tới lúc ấy, cánh cửa sám hối và hoán cải luôn luôn mở rộng, nhờ các đường lối mầu nhiệm của sự quan phòng và lòng từ ái của Thiên Chúa. Đức Giêsu tự đồng hóa mình với những ai Người sai đi rao giảng, và cảnh cáo rằng từ chối họ có nghĩa là từ chối chính Thiên Chúa, bất kể lý do hay niềm tin tôn giáo nào có thể dẫn tới sự từ chối ấy (x. Lc 10:16).

Bi kịch của Ítraen thời Kinh Thánh theo sau cuộc lưu đày tại Babylon là bối cảnh để ta hiểu lời cầu nguyện dài được cho là của ngôn sứ Barúc (x. Br 1:15; 3:8) trong cuốn sách mang tên ông. Kinh nguyện của Barúc mở đầu bằng lời nhận xét rằng mọi điều mà ngôn sứ Giêrêmia từng loan báo về những tù nhân trong cuộc lưu đày Babylon lần thứ nhất (x. Gr 29:4-23) đều đã ứng nghiệm, và đây là lúc để cầu xin cho các nhà cầm quyền Babylon được sống lâu, để dân Ítraen không phải chịu thêm những hình phạt nghiêm khắc hơn (x. Br 1:11-12), như chính Giêrêmia cũng đã khuyên nhủ vào lúc ấy (x. Gr 29:5-7). Điều căn bản ở đây là ý thức rằng lịch sử của tội lỗi bao trùm mọi thế hệ của Ítraen thời Kinh Thánh, kể từ cuộc giải phóng khỏi đất Ai Cập (x. Br 1:15-22). Sự cứng đầu của dân Ítraen không muốn nghe tiếng nói của Thiên Chúa đã dẫn đến thảm họa cho Ítraen là cuộc lưu đày ở Babylon và sự im lặng của Thiên Chúa, hay việc họ không có khả năng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Ở tâm điểm của việc suy xét lại không phải là lịch sử và thân phận của Ítraen, mà là Thiên Chúa. Và đây là sự sám hối thực sự, hành trình hoán cải thực sự.

Những gì xảy ra trong lịch sử không thể được coi như là sự vắng bóng Thiên Chúa; mặc dù nó cũng có thể là do sự kiêu ngạo, độc ác và tàn bạo của nền chính trị quốc tế, nhưng cơ bản phải hiểu nó như là biểu hiện sự “công chính” của Thiên Chúa (Br 1:15) và ước muốn của Người kêu gọi Ítraen trở về với tâm điểm ơn gọi của họ. Khám phá ra sự công chính của Thiên Chúa là một ơn huệ của chính Chúa, vì không thể lẫn lộn nó với mặc cảm tội lỗi hay với sự cam chịu của con người khi phải đối phó với cuộc đời; nó cũng đối nghịch với sự nổi loạn và dứt khoát xa rời Thiên Chúa. Kinh nguyện (của Barúc) bắt đầu với hiện tại và đi đến những khởi đầu của Ítraen thời Kinh Thánh (x. Br 1:15-16); các thảm họa và chấn động của cuộc lưu đày bao gồm toàn thể lịch sử của Ítraen, được giải thích trước hết trong ánh sáng của tội lỗi chống lại Thiên Chúa và lời của Người (x. Br 1:17-18). “Phạm tội trước mắt Chúa” là đánh mất mối quan hệ với Người. Nó là một bi kịch về cơ cấu, xảy ra một cách cụ thể, có ý thức, nhưng cũng một cách cẩu thả, bằng việc “không vâng lời” Chúa mỗi ngày, “không nghe tiếng của Người”, là tiếng nói cũng được nghe thấy trong các “giới luật” của Người. Ítraen thời Kinh Thánh không thể tự tạo ra một con đường cho chính mình để có thể có mối quan hệ với Thiên Chúa. Các lời của ngôn sứ Barúc gợi ý rằng thảm họa được trải nghiệm trong lịch sử của tội lỗi và lưu đày, dưới cái nhìn của dân ngoại, thậm chí đã gây phương hại đến tính khả tín của các vua chúa, các nhà cai trị, và các ngôn sứ của dân Ítraen (x. Br 1:16). Lịch sử này của tội lỗi và hình phạt không phải là lời nói cuối cùng; lời dạy của Môsê đã từng nhìn thấy trước rằng, với việc đón nhận tiếng gọi hoán cải, Ítraen của thời Kinh Thánh sẽ được Thiên Chúa qui tụ lại (x. Đnl 30:1-4).

Câu truyện của Ítraen thời Kinh Thánh lại trở thành Ítraen của Thiên Chúa cũng là câu truyện của Hội Thánh, mà nhờ đức tin vào Đức Kitô, Hội Thánh trở thành một phần của Ítraen của Thiên Chúa. Cũng như lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Giêsu cho các thành phố xứ Galilê không phải là một phán quyết bỏ rơi chung cuộc, thì cũng thế, cuộc lưu đày của Ítraen thời Kinh Thánh không đánh dấu sự kết thúc của câu truyện. Hành trình hoán cải, vốn phải là sự nhìn nhận tội lỗi của cá nhân và của cơ cấu, chắc chắn luôn luôn là một ân huệ của Thiên Chúa, nhưng nó có nguy cơ bị phung phí do sự tự khẳng định mình vội vã, hay trong một sự khôi phục hình thức và hời hợt các cử chỉ, nghi lễ, công thức và các câu nói không bao giờ có được sức mạnh của một sứ mạng phúc âm hóa.

Nguồn: Uỷ ban loan báo Tin Mừng – HĐGMVN